Doanh nghiệp công nghệ số cần chính sách thiết thực để bứt phá
Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, ngành công nghệ số Việt Nam đang được kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng mạnh, hướng tới mục tiêu đạt 4,32 nghìn tỷ đồng (khoảng 170 tỷ USD) doanh thu vào năm 2025.
Những thành quả này cho thấy doanh nghiệp công nghệ ngày càng đóng vai trò trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân, trở thành hạ tầng phát triển cốt lõi và là lực đẩy quan trọng trong công cuộc chuyển đổi số toàn diện. Tuy nhiên, để các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam không chỉ “lớn mạnh” trong nước mà còn vươn ra khu vực và thế giới, cần có những chính sách đồng bộ, kịp thời và mang tính dẫn dắt.

Nhiều doanh ghiệp công nghệ đã trình làng các sản phẩm "Make in Việt Nam"
Thị trường sôi động hướng đến tiềm năng rộng mở
Trí tuệ nhân tạo (AI) được xem là một trong những công nghệ then chốt thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp công nghệ. Theo ông Nguyễn Mạnh Quý, Giám đốc Viettel AI (Tập đoàn Viettel), lĩnh vực AI tại Việt Nam hiện rất sôi động, khi không chỉ có các công ty lớn mà cả các startup và các tập đoàn công nghệ quốc tế đều đang đầu tư mạnh mẽ. AI giờ đây không chỉ phục vụ các tổ chức hay doanh nghiệp, mà đã có rất nhiều công cụ miễn phí cho cá nhân sử dụng.
Trong doanh nghiệp, AI được ứng dụng rộng rãi trong chăm sóc khách hàng, vận hành mạng lưới, quản trị nội bộ… Khách hàng có thể tương tác với chatbot, voicebot để hỏi thông tin, đặt dịch vụ hay phản ánh sự cố.

Khách hàng có thể tương tác với chatbot, voicebot để hỏi thông tin, đặt dịch vụ hay phản ánh sự cố
Thực tế, nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt đang đi đầu trong việc tích hợp AI vào sản phẩm và quy trình, giúp tối ưu vận hành, nâng cao trải nghiệm người dùng và tiết giảm chi phí. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất mà các doanh nghiệp này đang đối mặt lại không đến từ công nghệ, mà chính là chính sách.
Một trong những vấn đề được các chuyên gia và doanh nghiệp nhiều lần nhấn mạnh là tốc độ hoàn thiện khung pháp lý chưa theo kịp sự phát triển nhanh của công nghệ. Các công nghệ mới như AI, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối hay điện toán đám mây đều đang thiếu cơ chế thử nghiệm chính thức (sandbox), khiến nhiều doanh nghiệp không thể thương mại hóa sản phẩm hoặc bị chậm trong triển khai.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp công nghệ Việt cũng gặp khó trong việc tiếp cận nguồn vốn R&D, các gói ưu đãi thuế hoặc hỗ trợ đầu tư công nghệ lõi chính là điều kiện cần thiết để hình thành các doanh nghiệp có sức cạnh tranh toàn cầu. Hiện rất khó để nhận được hỗ trợ nghiên cứu phát triển. Nhiều doanh nghiệp buộc phải tự thân vận động hoặc tìm nhà đầu tư nước ngoài.
Thiếu hụt nhân lực và hạ tầng dữ liệu
Ngoài chính sách, hai điểm nghẽn lớn khiến doanh nghiệp công nghệ khó bứt phá là nguồn nhân lực chất lượng cao và thiếu hạ tầng dữ liệu số quốc gia.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, mỗi năm Việt Nam cần thêm khoảng 150.000 lao động trong lĩnh vực công nghệ số, nhưng con số đào tạo ra còn thấp, đó là chưa kể chất lượng chưa đáp ứng nhu cầu. Đặc biệt, nhân lực giỏi về AI, dữ liệu lớn, bảo mật đang là những lĩnh vực then chốt thì vẫn rất khan hiếm.

Ngành công nghệ đang thiếu hụt nhân lực lao động
Các trường đại học công nghệ nên cập nhật nhanh chương trình đào tạo, tăng cường liên kết doanh nghiệp để sinh viên ra trường đáp ứng ngay công việc.
Mặt khác, việc phát triển các nền tảng công nghệ như AI không thể tách rời dữ liệu số, nhưng Việt Nam vẫn thiếu hệ thống dữ liệu dùng chung cấp quốc gia, cũng như cơ chế chia sẻ dữ liệu công - tư rõ ràng. Việc này khiến doanh nghiệp gặp khó khi phát triển mô hình học máy, phân tích dữ liệu hay xây dựng giải pháp số cho ngành y tế, giáo dục, giao thông…
Theo TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nếu không có môi trường thể chế phù hợp, doanh nghiệp công nghệ Việt sẽ mãi nhỏ lẻ và bị lấn át bởi các tập đoàn công nghệ nước ngoài. Chúng ta phải xem chính sách là hạ tầng của đổi mới sáng tạo. Cần các chính sách mở, hỗ trợ đầu tư mạo hiểm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp công nghệ tiếp cận thị trường trong nước.
Thực tế, nhiều quốc gia đã đi trước một bước về chính sách. Singapore có sandbox cho Fintech và AI, Hàn Quốc hỗ trợ lên tới 70% vốn R&D cho doanh nghiệp công nghệ, Ấn Độ xây dựng hẳn chương trình quốc gia về AI với mục tiêu xuất khẩu giải pháp ra toàn cầu. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi và điều chỉnh theo đặc thù trong nước.
Nghị quyết 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có ít nhất 5 doanh nghiệp công nghệ lớn tầm khu vực và toàn cầu. Đây không chỉ là kỳ vọng về quy mô, mà là định hướng chiến lược để doanh nghiệp công nghệ trở thành lực lượng tiên phong dẫn dắt đổi mới sáng tạo.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần sớm hoàn thiện những giải pháp: Khung pháp lý thử nghiệm công nghệ mới (sandbox); cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng cho đầu tư công nghệ cao; chiến lược quốc gia về AI, dữ liệu lớn, bán dẫn…; đào tạo nhân lực công nghệ theo chuẩn quốc tế và hệ thống dữ liệu mở, thúc đẩy kinh tế số và chính phủ số.
Doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn để bứt phá, vươn ra khu vực và thế giới. Nhưng để tận dụng tốt cơ hội đó, cần có một hệ sinh thái chính sách thực chất, linh hoạt và theo kịp thực tiễn công nghệ. Chỉ khi ấy, các doanh nghiệp mới đủ điều kiện phát triển vượt bậc, hình thành nên những thương hiệu công nghệ mang dấu ấn “Make in Vietnam” trên bản đồ số toàn cầu.