Lưu ý quan trọng cho doanh nghiệp Việt khi xuất khẩu sang Mỹ
Xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ đang ngày càng trở nên phức tạp đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Không chỉ phải đối mặt với áp lực từ những thay đổi thuế quan của Mỹ, nhiều doanh nghiệp còn phải tuân thủ các quy định mới và tiêu chuẩn ngày càng nghiêm ngặt.
Tại cuộc hội thảo “Các chính sách thuế quan mới của Mỹ và ứng phó của Việt Nam” vào ngày 27-3, bà Nguyễn Nam Trân, Giám đốc điều hành của SGS Việt Nam, công ty tư vấn và kiểm định chất lượng cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa hàng ra nước ngoài đã đưa ra một số chỉ dẫn quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Sự kiện do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn phối hợp với Công ty Luật TNHH HM&P tổ chức thu hút các chuyên gia kinh tế, đại diện cơ quan quản lý, hiệp hội ngành nghề, cộng đồng doanh nghiệp, đại diện hiệp hội ngành nghề, các sở, ban ngành.

Bà Nguyễn Nam Trân, Giám đốc điều hành của SGS Việt Nam trình bày tại hội thảo. Ảnh: Lê Vũ
Gia tăng thách thức về quy định và tiêu chuẩn
Theo bà Nam Trân, một trong những trở ngại lớn nhất đối với doanh nghiệp Việt Nam chính là chưa có sự hiểu biết một cách đầy đủ về các quy định mới của Mỹ. Những thay đổi này không chỉ làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu mà còn dẫn đến việc hàng hóa bị trả lại, dẫn đến tổn thất lớn cho nhà sản xuất xuất khẩu.
Chẳng hạn, Luật Hiện đại hóa an toàn thực phẩm (The Food Safety Modernization Act - FSMA) đã được áp dụng từ nhiều năm nay, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về kiểm soát an toàn thực phẩm.
Với đạo luật này, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) nâng cao các biện pháp kiểm soát toàn diện bao gồm Chương trình Xác minh Nhà cung cấp Nước ngoài (Foreign Supplier Verification Program – FSVP).
Luật này đã tạo ra thách thức lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực thủy sản và nông sản. Kể từ năm 2018, các đối tác Mỹ đã yêu cầu các nhà sản xuất thủy sản, nông sản thô và thực phẩm ăn liền phải có chứng nhận FSMA. Tuy nhiên, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực hiện được.
Tháng rồi, một công ty Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực thủy sản và thực phẩm xuất hàng vào Mỹ nhưng lô hàng đã bị trả về vì không có chứng nhận FSMA FSVP. Doanh nghiệp này cho hay những năm trước vẫn được thông quan dù không có chứng nhận FSMA FSVP.
Thật ra, nhiều năm trước, doanh nghiệp đã được thông báo về việc phải có chứng nhận nói trên nhưng vẫn không thực hiện vì lúc đó vẫn đưa được hàng vào Mỹ. Sự chủ quan này đã khiến công ty phải tốn thêm các chi phí lưu kho và cuối cùng phải nhận hàng về, thiệt hại ước tính đến cả tỉ đồng. Hiện nhà sản xuất này đang ráo riết làm gấp FSMA FSVP để xuất các lô hàng mới.
Ngoài FSMA, các yêu cầu về kiểm tra hóa chất vĩnh cửu (PFAS) trên sản phẩm thủy sản vào thị trường này cũng ngày càng bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Các nhà nhập khẩu của Mỹ hiện rất quan tâm đến các chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm trên các mặt hàng họ đưa vào tiêu thụ ở Mỹ.
Quy định về PFAS bắt nguồn từ sự việc một số công ty Trung Quốc bị phát hiện có chứa chất PFAS trong hàng nhập vào Mỹ và từ năm 2025, FDA sẽ quản lý chặt chẽ hơn vấn đề này. Điều này có nghĩa là cùng với hàng rào thuế quan, các hàng rào kỹ thuật cũng được siết chặt và ở phía các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ sẽ chịu nhiều áp lực hơn về mặt chi phí cũng như rủi ro bị trả hàng.

Nhiều khách tham dự chú ý những thông tin chia sẻ của bà Nguyễn Nam Trân. Ảnh: BTC
Tương tự, trong lĩnh vực dệt may và da giày, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với tình trạng bị yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết hơn về sản phẩm, từ mã số khách hàng đến mã QR Code đến việc đánh số thứ tự trực tiếp trên thùng và tạo ra mã code cũng phải tạo ra chuỗi liên tục chứ không cho in hàng loạt như trước... Những quy định này có thể làm gia tăng chi phí sản xuất, bởi để làm việc này doanh nghiệp sẽ phải đầu tư loại máy in mã QR với giá 10.000 đô la Mỹ.
Ngoài ra, theo bà Trân, thị trường Mỹ đang đặt ra yêu cầu cao đối với tính minh bạch trong chuỗi cung ứng. Những yêu cầu này không chỉ đơn thuần là truy xuất nguồn gốc mà còn phải công khai các tiêu chuẩn, quy trình sản xuất và các yếu tố về trách nhiệm xã hội và môi trường. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiêm túc tiếp cận vấn đề này để không bị tụt hậu và vuột mất cơ hội xuất khẩu sang Mỹ.
Ba trụ cột quan trọng để vượt qua thách thức
Để vượt qua các rào cản kỹ thuật nói trên, bà Trân đề nghị doanh nghiệp cần tập trung vào ba trụ cột chính. Thứ nhất là phải đảm bảo an toàn và chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về chất lượng và an toàn sản phẩm cũng như kiểm soát dư lượng thuốc và hóa chất cho phù hợp với yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Việc áp dụng công nghệ hiện đại và các phương pháp truy xuất nguồn gốc cũng rất quan trọng để kiểm soát chất lượng sản phẩm.
Trụ cột kế tiếp là phải minh bạch và bền vững trong chuỗi cung ứng. Doanh nghiệp cần đảm bảo rằng nguồn nguyên liệu hợp pháp và thân thiện với môi trường. Các doanh nghiệp phải đảm bảo nguồn nguyên liệu hợp pháp và thân thiện với môi trường. Việc thiết lập một chuỗi cung ứng bền vững, có hệ thống quản lý rủi ro từ khâu sản xuất đến khâu vận chuyển là rất quan trọng.
Trụ cột thứ ba cần xây dựng lộ trình phát triển bền vững. Doanh nghiệp cần thực hiện các tiêu chí liên quan đến môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đồng thời tính toán phát thải khí nhà kính và thiết lập lộ trình giảm phát thải.
Cùng với các trụ cột nêu trên, bà Nam Trân của SGS Việt Nam khuyến cáo, doanh nghiệp cần ghi lại và lưu trữ các dữ liệu quan trọng trong chuỗi cung ứng như mã sản phẩm, số lô, ngày sản xuất, thông tin người bán và người mua. Dữ liệu phải được giữ trong tối thiểu hai năm và có thể cung cấp cho FDA trong vòng 24 giờ khi có yêu cầu. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh mà FDA có thể yêu cầu các hồ sơ truy xuất nguồn gốc ở định dạng điện tử.
Cuối cùng, bà khuyến nghị, doanh nghiệp cần có chiến lược dài hạn trong việc phát triển bền vững. Ngoài việc nâng cao nhận thức và năng lực cho đội ngũ nhân viên, doanh nghiệp cũng nên đầu tư vào công nghệ và phát triển sản phẩm mới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc, sự thành công trong việc xuất khẩu sang Mỹ không chỉ phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm mà còn vào khả năng thích ứng và tuân thủ các quy định khắt khe của thị trường này.