Đoàn 59 - Những người đưa Tiếng nói Việt Nam vang xa từ Côn Minh
Sự ra đời của 'Đoàn 59' cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng, Chính phủ khi từ những năm 1964 đã có kế hoạch chuẩn bị đảm bảo thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị là trong bất kỳ tình huống nào cũng phải bảo đảm tiếng nói của Đảng, Chính phủ, Nhân dân được liên tục, thông suốt.

“Tiếng của ngàn xưa, tiếng của Bác Hồ…” có lẽ là động lực thôi thúc các thành viên của Đoàn 59 vào 52 năm trước sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ tại nước bạn trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, đặc biệt khi đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc.
Để đảm bảo làn sóng Tiếng nói Việt Nam luôn thông suốt, ít người biết rằng, đầu năm 1973, một đoàn công tác đặc biệt với mật danh “Đoàn 59” đã được thành lập và bí mật lên đường sang thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc trực tiếp thực hiện công tác biên tập, phát sóng về Việt Nam cũng như ra thế giới, đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc đấu tranh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sự ra đời của “Đoàn 59” cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng, Chính phủ khi từ những năm 1964 đã có kế hoạch chuẩn bị đảm bảo thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị là trong bất kỳ tình huống nào cũng phải bảo đảm tiếng nói của Đảng, Chính phủ, Nhân dân được liên tục thông suốt. Tổng Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam Trần Lâm khi đó đã trình bày kế hoạch với Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị Chính phủ Trung Quốc cho mượn một đài phát sóng trung có công suất lớn để thay thế đài phát sóng Mễ Trì khi cần thiết. Cụ thể là đề nghị mượn sóng của Đài phát thanh Côn Minh trên cao nguyên Vân Nam cao 1.892m so với mực nước biển, tỏa sóng xuống Việt Nam rất tốt.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, những chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi của Đoàn 59 khi đó giờ đã lên ông, lên bà. Giờ những lần hiếm hoi gặp lại nhau, cùng xem lại những tấm ảnh đã ngả màu theo thời gian, ký ức về quãng thời gian “công tác đặc biệt” trên đất bạn, dẫu còn nhiều khó khăn nhưng cũng đầy ắp kỷ niệm, vẫn vẹn nguyên như ngày hôm qua. Với họ, đó là những ký ức không thể nào quên và là kỷ niệm “độc nhất vô nhị” trong quãng thời gian công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam.

Ngược dòng thời gian trở về những năm tháng chiến tranh phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ, trong cuốn hồi ký “Bay qua cơn lốc”, nhà báo Phạm Thị Chóng - nguyên phóng viên Chương trình phát thanh Phụ nữ kể lại: “Khi tôi hoàn thành chuyến công tác Hà Bắc thì cũng là lúc Hà Nội thực hiện xong một “Điện Biên-Phủ trên không" với 12 ngày đêm chiến đấu và chiến thắng cuộc ném bom hủy diệt của không lực Hoa Kỳ. Không thể đưa Việt Nam về thời kỳ đồ đá, mà trái lại đã đưa Việt Nam lên một tầm cao mới của lương tri nhân loại. Mỹ buộc phải tuyên bố phá sản cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc. Họ buộc phải quay trở lại bàn đàm phán. Một số cơ quan, trường học từ nơi sơ tán đã bắt đầu lục tục kéo nhau về Hà Nội.
Tuy nhiên, trong mười hai ngày đêm đánh phá ác liệt Hà Nội, Mỹ đã ném bom đánh sập Đài phát sóng Mễ Trì. Anh Thanh, công nhân kỹ thuật hy sinh. Lần đầu tiên, Đài Tiếng nói Việt Nam bị ngừng phát sóng chín phút. Sau đó, ngay lập tức phải chuyển sang đài phát sóng dự bị nhưng sóng không được mạnh. Tổng Biên tập Trần Lâm xin ý kiến Chính phủ điều một đội ngũ gồm cán bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập, phát thanh viên (tiếng Việt, tiếng nước ngoài), công nhân kỹ thuật đến một điểm phát sóng mới mạnh hơn, vang xa hơn. Vậy là, mỗi phòng, ban biên tập phải cử một người đi đến địa điểm hoàn toàn bí mật, hang sâu, núi cao nào đó mà Tổng Biên tập nói là “sống để dạ, chết mang theo”, không được thư từ liên hệ (kể cả vợ, chồng hay cha mẹ)…” - (Trích Những tháng năm xa xứ lần đầu - Hồi ký Bay qua cơn lốc).

Theo nhà báo Phạm Thị Chóng, vào thời điểm đó, mỗi cán bộ, phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam đều xác định mình như một chiến sĩ, nhiệm vụ đã giao là cứ thế lên đường. Cái khó nhất của bà khi đó là thuyết phục được những người thân trong gia đình đồng ý để mình lên đường làm nhiệm vụ.
“Khi đó tôi mới lấy chồng được hơn một năm, cũng chưa có con cái gì. Khi tôi nói mình sẽ phải đi công tác ở một nơi rất xa và cũng chưa xác định khi nào về, anh có đồng ý để em đi không? Chồng tôi gượng cười “Đã là nhiệm vụ thì làm sao anh cản được. Chỉ tiếc, giá chúng ta có đứa con để nó ở lại thì mẹ và anh đỡ buồn”. Về nhà ở quê để chào tạm biệt gia đình trước khi lên đường làm nhiệm vụ, các chị dâu, chị gái tôi cứ khóc sướt mướt vì không biết tôi sẽ đi đâu và khó khăn như thế nào. Người ta cứ đồn nhau rằng B-52 thì nó cứ theo sóng của Đài mà đánh nên mọi người đều lo có khi chết mà không gặp nhau nữa”, nhà báo Phạm Thị Chóng hồi tưởng lại.
Nhà báo Dương Quang Minh - nguyên phóng viên phòng Thời sự quốc tế đã khắc họa lại hình ảnh buổi chia tay xúc động khi các thành viên Đoàn 59 lên đường làm nhiệm vụ. Trong cuốn “Lộc Đài” ông đã viết: “Hôm ấy là ngày 21/1/1973. Hà Nội rét đậm. Sắp đến Tết Quý Sửu mà phố phường vẫn im lìm. Nhiều gia đình đi sơ tán vẫn chưa về. Dư âm của 12 ngày đêm cuối năm 1972 Mỹ ném bom dữ dội Hà Nội vẫn còn. Một trăm con người trên ba chiếc xe ca chuẩn bị rời sân 58 Quán Sứ. Qua cửa kính, tôi thấy các ông Lê Quý (Trưởng đoàn), ông Thái Bảo, Nguyễn Văn Thu (Phó Trưởng đoàn) bắt tay, ôm hôn ông Trần Lâm (Tổng biên tập) và các ông Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Nhất (Phó Tổng biên tập), ông Bùi Quang Thu (Trưởng Ban biên tập Đối nội). Rồi, người đi kẻ ở vẫy tay chào tạm biệt nhau. Mấy bà, mấy cô trong Đoàn 59 mắt đỏ hoe…”.

Với nhà báo Đinh Thế Lộc - nguyên Trưởng Ban Đối ngoại, nguyên Tổng Biên tập Báo Điện tử VOVNews (nay là Báo Điện tử Tiếng nói Việt Nam), thông tin về chuyến công tác đặc biệt đến với ông vào một buổi sáng cuối đông năm 1972. “Khi đó tôi vừa dựa chiếc xe đạp cà tàng để bước vào sảnh thì thấy chị N thò đầu nói với qua cánh cửa phòng làm việc đang khép hờ: “Cậu lên gác ngay, sếp gặp có việc cần”, ông Đinh Thế Lộc nhớ lại.
Mang theo tâm trạng của một cậu trai mới lớn giống như bao thanh niên thời đó luôn nghĩ rằng, khi cuộc chiến đấu của dân tộc đang bước vào những ngày cuối cùng đầy gian khổ nhưng cũng thật hào hùng, liệu mình có bỏ lỡ dịp được xung trận vào sâu phía nam hay không? ông lên gặp sếp. Tuy nhiên, trái ngược hẳn với những suy nghĩ, tâm trạng hồi hộp suốt quãng đường trước khi bước vào phòng lãnh đạo, ông được lệnh “Về nhà ngay, thu xếp mọi thứ sẵn sàng để đi công tác dài hạn trong một thời gian không biết bao lâu…”.

“Đi đâu không rõ nhưng chắc chắn không phải là vào tuyến lửa hay chiến trường như tôi mong đợi mà như lời của sếp là đến một địa điểm an toàn, rất xa Hà Nội để tiếp tục công việc biên tập và phát sóng chương trình để đảm bảo cho sóng phát thanh của ta vang xa, thậm chí phải khỏe hơn trước khi Mỹ đánh phá…”, nhà báo Đinh Thế Lộc nhớ lại.

Vượt qua hành trình gần 1.000 km từ Hà Nội với việc di chuyển bằng ô tô tới Lào Cai, qua Hà Khẩu và đi tàu liên vận đến thành phố Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tại nơi đây, các thành viên Đoàn 59 đã có thời gian sống và làm việc trong 18 tháng. Cùng đón 2 mùa xuân trên đất bạn với sự đón tiếp nồng hậu, chân tình của người dân nơi đây. Nói như nhạc sĩ Dân Huyền “Côn Minh không chỉ là thành phố bốn mùa xuân, mà còn là nơi tình người phát thanh ấm cúng trong hai năm (1973 - 1974) vẫn luôn lưu dấu”.
Đến Côn Minh, các thành viên Đoàn 59 đã nhận được sự đón tiếp nhiệt tình từ phía bạn. Để giúp đỡ cho Đoàn 59 trong thời gian công tác tại Côn Minh, phía Trung Quốc đã thành lập Văn phòng 731 (viết tắt của mốc tháng 1 năm 1973 - khoảng thời gian Đoàn 59 được thành lập). Đoàn được phía bạn bố trí ăn nghỉ tại khu nhà 3 tầng thuộc khách sạn Thúy Hồ, cạnh Bảo Sơn phố cổ, phóng tầm mặt ra là cảnh mênh mông của hồ cùng tên. Cho đến tận bây giờ, sau 52 năm, nhà báo Đinh Thế Lộc vẫn nhớ như in phong cảnh nơi đó. “Nơi chúng tôi ở nhìn ra Thúy Hồ rộng mênh mông có rất nhiều cây liễu xanh mát, rủ bóng. Phong cảnh đẹp như tranh vẽ với thời tiết cực kỳ dễ chịu. Côn Minh còn được gọi là Xuân Thành (thành phố 4 mùa xuân) bởi khí hậu luôn mát mẻ quanh năm”.

Nơi làm việc của đoàn là một căn nhà 2 tầng với đầy đủ trang thiết bị trên núi Ngũ Hoa. Từ nơi ở đến nơi làm việc, hàng ngày các thành viên trong đoàn phải băng qua một con dốc vừa dài, vừa cao. Dọc theo con đường đó, họ luôn nhận được sự chào đón của những người dân Trung Quốc bình dị, hồn hậu. Dù có bất đồng về ngôn ngữ nhưng qua những nụ cười, cử chỉ họ có thể phần nào hiểu được sự chân thành của người dân dành cho những người bạn Việt Nam mới đến đây.
Trong những tháng ngày công tác tại Côn Minh, các thành viên Đoàn 59 đã sống và làm việc với nhau như một đại gia đình, chia sẻ với nhau mọi niềm vui, nỗi buồn trong công việc và cuộc sống. “Ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn và tham gia đọc bản tin thời sự tôi thường dạo phố, đi lùng mua tôm khô và rau cải cúc ở các chợ để tự mình nấu bát canh tôm cải thiện, vừa giúp cho những anh chị em đau ốm đang nằm ở nhà nghỉ hay đang nằm viện”, nhạc sĩ Dân Huyền nhớ lại.
Những ngày đầu công tác tại nước bạn, dù nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình về cơ sở vật chất, nơi ăn chốn nghỉ nhưng các thành viên Đoàn 59 cũng phải vượt qua nhiều khó khăn. Công việc hàng ngày trực thu các bản tin trong nước, các bản tin đọc chậm qua teletype, pho-ny từ Đài TNVN từ Hà Nội phát đi, tin telex từ Thông tấn xã Việt Nam khá vất vả do điều kiện sóng yếu, chất lượng âm thanh không tốt, nếu không tập trung sẽ rất dễ nhầm lẫn, “chữ tác thành chữ tộ”.
“Đọc một cái tin, nếu như ở Hà Nội thì chúng tôi sẽ đọc từng mẩu giấy một. Nhưng ở bên này, tin telex phát từ Thông tấn xã sang là cả một cuộn giấy dài khoảng 2-3 mét, chữ telex lại không có dấu thanh điệu nêu đòi hỏi phải tập trung cao độ và kỹ thuật đọc rất khác. Bên cạnh đó, để kẻ địch không phát hiện ra sự khác biệt nên tin ở Hà Nội phát như thế nào thì bên này chúng tôi cũng phải thể hiện y như vậy, không có sự khác biệt”, NSƯT Hà Phương - nguyên phát thanh viên Đài TNVN nhớ lại.

Ông Nguyễn Toàn Thắng - Kỹ sư âm thanh thuộc Trung tâm Âm thanh, một thành viên trong Đoàn 59 khi đó cho biết: Để đảm bảo yếu tố bí mật, việc phát sóng từ Côn Minh cũng phải được tính toán kỹ, do Việt Nam và Trung Quốc chênh nhau 1 tiếng đồng hồ nên khi sản xuất, phát sóng chương trình cũng phải làm sao cho khớp.
Ngoài việc thu âm qua sóng, hàng tuần, các chương trình do Đài TNVN sản xuất trong nước sẽ được ghi băng và giao liên chuyển lên Lào Cai, các thành viên Đoàn 59 cắt cử nhau đi tàu hỏa xuống Hà Khẩu nhận băng trong nước chuyển sang để biên tập, phát sóng. Hành trình này kéo dài trong suốt quãng thời gian công tác tại Côn Minh và cũng có những mất mát, hy sinh. Trong một lần chuyển băng lên Lào Cai để chuyển sang Côn Minh, lái xe của phòng Bá âm Nguyễn Văn Hưởng đã gặp tai nạn và hy sinh. Nhắc lại kỷ niệm này, các thành viên Đoàn 59 vẫn thấy bùi ngùi, để Tiếng nói Việt Nam thông suốt, họ đã phải đánh đổi nhiều thứ, trong đó có cả mất mát, hy sinh của đồng đội.
Khắc phục khó khăn trong những ngày đầu hoạt động, sóng Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi từ Côn Minh đã vang xa và rõ ràng. “Chỉ một tuần sau, bạn nghe đài khắp trong và ngoài nước tới tấp gửi thư về khen sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam bây giờ mạnh hơn trước rất nhiều”, nhà báo Phạm Thị Chóng cho biết. “Ở bên ngoài họ cũng không hiểu tại sao sóng Đài Tiếng nói Việt Nam lại vang xa và rõ ràng như vậy. Điều đó cho thấy bên cạnh nỗ lực của chúng ta, còn là sự hỗ trợ rất lớn từ phía các bạn Trung Quốc”, nhà báo Đinh Thế Lộc nói.

18 tháng sống và làm việc trên đất bạn, điều đọng lại lớn nhất với các thành viên Đoàn 59 là tình cảm “chí nghĩa, chí tình” mà những người bạn Trung Quốc dành cho họ. Ngoài việc bố trí nơi ăn, chốn ở, nơi làm việc thuộc loại tốt nhất khi đó, các thành viên Văn phòng 731 luôn để ý quan tâm đến cuộc sống, thói quen của mỗi thành viên Đoàn 59.
Nhà báo Đinh Thế Lộc cho biết, ông có một thói quen vẫn còn giữ đến bây giờ là ngâm chân buổi tối. Thói quen này ông học được trong những năm tháng công tác tại Côn Minh. Có một lần buổi tối ông xuống nhà đã thấy một người phụ nữ xinh đẹp đã chuẩn bị sẵn cho ông một chậu nước nóng và mời ông ngâm chân. “Tôi rất xúc động vì từ bé đến lớn chưa có ai quan tâm đến mình như vậy ngoài mẹ mình”.
Nhà báo Đình Lương kể lại: Có lần bên nhà gửi sang quả dưa hấu tươi ngon, anh em ăn xong cho vỏ vào sọt rác. Khi đổ rác, chị em tạp vụ người Trung Quốc thấy được, hôm sau bạn chở đến cho đoàn cả xe tải dưa hấu. Thế mới hay dân ở đâu cũng vậy, dù qua ngàn đời hay ở vạn nơi thì vẫn là dân: chân chất, hiểu nhau, thương nhau, chăm nhau từng ly, từng tý.
Sống xa quê hương, dù nhận được sự tiếp đón chân tình của những người bạn Trung Quốc nhưng ngoài thời gian bận rộn cho công việc, những thành viên Đoàn 59 vẫn không khỏi nhớ nhà, nhớ quê hương. Với nhạc sĩ Dân Huyền “Sống nơi đất khách quê người, tiếng Việt Mẹ đẻ rất thiêng liêng. Mỗi lần đi dạo phố, chúng tôi thường đi qua nhà bà Pá Việt Kiều. Bà thường đặt một cái ghế ở trước nhà và gần như ngồi thường trực ở đó để chờ chúng tôi đi qua và chỉ cần chào bằng tiếng Việt là bà phấn khởi lắm lắm”.

Tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ càng thân thương khi sống ở nơi đất khách quê người có lẽ là động lực để nhạc sĩ Dân Huyền phác thảo những nốt nhạc đầu tiên của ca khúc “Lắng tiếng quê hương” nổi tiếng sau này.
Đón 2 mùa xuân trên đất bạn, khoảnh khắc giao thừa là khoảnh khắc nhớ người thân nhất đối với họ. Bà Phạm Thị Chóng kể, thời đó, mấy cô gái trẻ như bà lần đầu tiên sống xa nhà yếu đuối lắm. “Tối ba mươi Tết Quý Sửu, mọi người ngồi dưới phòng khách lớn đón Xuân, chúng tôi chạy lên phòng riêng nằm khóc. Sáng mồng Một Tết, đến Lãnh sự quán Việt Nam tại Côn Minh, vừa nhìn thấy lá cờ Tổ quốc, chúng tôi cũng khóc”, bà Chóng nhớ lại.
Nhà báo Trần Đức Nuôi trong một bài báo về Đoàn 59 đã viết: “Một ngày hạ tuần tháng 1/1973, ông Lê Tiến, Phó Trưởng ban biên tập Đối ngoại và ông Trần Sinh, biên tập viên tiếng Quảng Đông đầu tiên của Đài TNVN được Tổng biên tập Trần Lâm trực tiếp trao cho hộp bìa cứng nặng khoảng 1kg theo chuyên cơ LI- 2, hai cánh quạt cất cánh từ sân bay Gia Lâm sang Côn Minh. “Báu vật” bên trong - theo cách nói của ông Trần Lâm - là 3 văn bản dự thảo Hiệp định Paris bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp mà Bộ Ngoại giao đã gắn xi bảo hiểm. Các ông Lê Quý, Thái Bảo, Nguyễn Thu ra tận sân bay Côn Minh đón đoàn và “báu vật”.
Ngày 27/1/1973 tại Paris, “Hiệp định về Chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết, lệnh phát sóng toàn văn Hiệp định lên đài quốc gia được ban ra. Ông Phạm Xuân, biên tập viên thời sự ôm khư khư “báu vật” trong lòng, hai bên là hai hồng vệ binh ôm súng bảo vệ trên xe Hồng Kỳ - sang nhất Trung Quốc thời bấy giờ, chạy một mạch hơn 30 cây số đến đài phát sóng.
Chiều tối hôm ấy, đồng bào chiến sỹ cả nước và bạn bè trên thế giới nghe rõ toàn văn Hiệp định Paris. Có ai biết được Hiệp định Paris phát đi đầu tiên từ đài phát sóng 500kw tại Côn Minh, mái nhà Tây Nam Trung Quốc. Mấy ai thấu hiểu sự lao động miệt mài và sáng tạo của cán bộ, biên tập viên Đài TNVN ở hai đầu Hà Nội - Côn Minh trong những ngày ấy… Nghe Hiệp định Paris được phát đi, anh chị em Đoàn 59 và 731 ôm chầm lấy nhau, miệng cười hạnh phúc mà nước mắt rơi”.
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết nhưng ngày lại ngày trôi qua với biết bao đêm ngóng dò bắt đài qua tần số phát ở bên nhà xem tiến độ xây dựng đài phát sóng đến đâu để đến ngày trở về nhưng phải mất 2 cái Tết trên đất bạn, các thành viên Đoàn 59 mới được về nhà. Ngày chia tay những người bạn Trung Quốc với rất nhiều bịn rịn và lời hứa gặp lại, nhưng với nhiều thành viên, phải mất 52 năm sau khi đã ở tuổi xế chiều họ mới có dịp hội ngộ.

Các thành viên "Đoàn 59" và các phóng viên trong một lần gặp mặt.
