Đỉnh cao của xe đạp ở Châu Âu
Thập niên 1950 được xem là thời kỳ đỉnh cao của ngành sản xuất xe đạp ở châu Âu. Nhà xưởng sản xuất phương tiện này mọc lên ở khắp nơi, quy trình cũng được chuyên biệt hóa hơn.

Xe đạp là phương tiện được sử dụng phố biến trong Thế chiến II ở châu Âu. Ảnh minh họa: T.T.
Tôi cần một chiếc xe đạp mới. Tôi có thể mua nó trên mạng ngay lập tức, thanh toán bằng thẻ tín dụng, và chỉ mất 3000 bảng Anh để sở hữu một chiếc xe đạp đua bằng carbon hay titan được sản xuất hàng loạt.
Tôi có thể lao lên những quả đồi trên cỗ xe mới tuyệt hảo ấy ngay hoàng hôn ngày mai. Viễn cảnh ấy rất hấp dẫn, cực kỳ hấp dẫn. Nhưng đó không phải điều tôi muốn.
Giống như nhiều người khác, tôi bị thất vọng khi mua sắm những thứ hàng hóa được thiết kế để dùng rồi vứt đi nhanh chóng. Tôi muốn phá vỡ vòng lặp ấy với chiếc xe đạp mới này. Tôi sẽ dùng nó trong 30 năm hoặc hơn thế, tôi muốn tận hưởng quá trình có được nó.
Tôi muốn sở hữu chiếc xe đạp tốt nhất mà tôi có thể mua được, tôi muốn già đi với nó. Bên cạnh đó, đây là loại chi phí chỉ cần bỏ ra một lần. Tôi muốn có một chiếc xe đạp hơn cả tốt. Tôi muốn một chiếc xe mà bạn không thể mua được trên mạng hay ở bất cứ đâu. Bất cứ ai đạp xe thường xuyên và có cảm giác tôn trọng hoặc yêu thương, dù là mờ nhạt nhất, đối với con “chiến mã” của mình sẽ hiểu được nỗi khao khát này, tôi muốn một chiếc xe đạp chỉ mình tôi có.
Tôi cần một cỗ xe có pháp thuật, một thứ mà bằng cách nào đó phản ánh được lịch sử đi xe đạp của tôi và chuyển tải được những khát vọng của tôi với việc đạp xe. Tôi muốn một chiếc xe được chế tác thủ công chứ không phải hàng sản xuất công nghiệp; tôi muốn một chiếc xe do bàn tay con người tạo ra; tôi muốn nó có cá tính, không bao giờ trở nên lỗi mốt.
Tôi muốn một chiếc xe thể hiện được sự trân trọng của tôi đối với truyền thống, với những huyền thoại và vẻ đẹp của xe đạp. Người Pháp đặt biệt danh cho xe đạp là "la petite reine" - Tôi muốn có “nữ hoàng nhỏ” của riêng mình.
Tôi biết phải bắt đầu từ đâu.
Một người thợ làm khung thủ công có thể đo đạc và chế tạo một khung xe theo yêu cầu.
Rất ít người biết điều này, thực chất là bạn có thể đặt chế tạo riêng một khung xe, được thiết kế vừa vặn với cơ thể bạn, được điều chỉnh cho phù hợp với cách đạp xe của bạn, mà chỉ cần tốn ít tiền hơn rất nhiều so với những loại khung xe sản xuất đồng loạt với kiểu dáng kỳ lạ bày bán trong các cửa hàng.
Sáu mươi năm trước, bạn có thể tìm thấy ít nhất một thợ làm khung xe tại bất kỳ thị trấn lớn nào ở miền Bắc Italy, Pháp, Bỉ và Hà Lan. Ở Anh là nhiều nhất, có thể có hàng tá thợ ở các thành phố lớn.
Trong khi một số ít công ty khổng lồ như Rudge-Whitworth, Raleigh và BSA ở Anh, Bianchi ở Ý và Peugeot ở Pháp chú trọng vào sản xuất xe đạp cho số đông thì các xưởng làm khung xe nhỏ sẽ chế tạo xe đạp cho hội viên các câu lạc bộ xe đạp, các tay đua, người đi xe đạp du lịch và những người sành chơi xe. Mỗi thợ thủ công này chỉ làm khoảng vài chục khung xe mỗi năm, tập trung cao độ vào từng chi tiết và những đường nét trang trí mang tính cá nhân.
Trong cuốn hồi ký được yêu thích của mình về câu chuyện đạp xe thời hậu chiến, One More Kilometre and We’re in the Showers (tạm dịch: Chỉ 1 km nữa thôi là ta được tắm rồi), Tim Hilton đã gọi những khung xe thủ công này là “nghệ thuật dân gian của thời công nghiệp”.
Những món công cụ đơn giản như dũa, cưa sắt, đèn khò và một thiết bị để giữ các ống kim loại trong khi hàn, đã gắn liền những người thợ chế tạo khung xe với một nền văn hóa thủ công đầy sáng tạo đã có từ những ngày đầu của ngành sản xuất xe đạp.
Ngay cả hãng Raleigh cũng bắt đầu từ một xưởng nhỏ, chỉ săn xuất ba chiếc xe đạp mỗi tuần vào năm 1888. Đến năm 1951, con số đó đã là 20000 chiếc mỗi tuần.
Đầu thập niên 1950 là thời kỳ đỉnh cao của ngành công nghiệp xe đạp ở châu Âu. Chỉ riêng ở Anh đã có 12 triệu người sử dụng xe đạp thường xuyên. Khi các nhà săn xuất lớn phát triển bùng nổ, các tiệm chế tạo khung xe ở các thị trấn nhỏ cũng phát triển theo.
Đã từng có nhiều nhà chế tạo khung xe nhỏ lẻ mà ngày nay các nhà sưu tập chỉ còn có thể nhớ được tên của họ, tiêu biểu như Major Nichols và Ron Cooper ở Anh, Alex Singer và René Herse ở Pháp, Faliero Masi và Francesco Galmozzi ở Italy.




























