Diện mạo hệ thống đường sắt đô thị, sân bay của Hà Nội năm 2030, tầm nhìn 2050
Theo quy hoạch mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cùng với hoàn thiện các trục giao thông đô thị, khép kín các tuyến đường vành đai, Hà Nội cũng sẽ đầu tư xây dựng 14 tuyến đường sắt đô thị và 2 tuyến đường sắt nhẹ, cũng như nghiên cứu xây dựng cảng hàng không thứ hai tại khu vực Đông Nam, Nam Thủ đô Hà Nội.
Xây dựng 14 tuyến đường sắt đô thị
Theo Quyết định 1569/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, phạm vi, ranh giới quy hoạch gồm toàn bộ phần lãnh thổ Thủ đô Hà Nội có tổng diện tích tự nhiên là 3.359,84 km2. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Vĩnh Phúc; phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Hà Nam, tỉnh Hòa Bình; phía Đông giáp tỉnh Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hưng Yên; phía Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình, tỉnh Phú Thọ.
Đối với các chỉ tiêu, về kinh tế, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt 8,5 - 9,5%/ năm thời kỳ 2021 - 2030. Quy mô GRDP (giá hiện hành) năm 2030 gấp 3,4 lần năm 2020; đóng góp 15 - 16% tổng sản phẩm (GDP) của cả nước, khoảng 45 - 46% GRDP của vùng đồng bằng sông Hồng. GRDP bình quân/người (giá hiện hành) đạt khoảng 13.500 - 14.000 USD.
Về xã hội, quy mô dân số thường trú khoảng 10,5 - 11 triệu người; dân số vãng lai quy đổi khoảng 1,45 triệu người.
Tầm nhìn đến năm 2050, Thủ đô Hà Nội là thành phố toàn cầu, xanh - thông minh - thanh bình - thịnh vượng, GRDP bình quân đầu người khoảng 45.000 - 46.000 USD; tỷ lệ đô thị hóa khoảng 80 - 85%.
Liên quan đến phương án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, Quy hoạch xác định, về đường bộ, Hà Nội tập trung hoàn thiện mạng lưới đường bộ cao tốc; nâng cấp, cải tạo các tuyến cao tốc hướng tâm hiện có, ưu tiên nâng cấp, mở rộng cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn qua thành phố; xây mới các tuyến vành đai. Trong đó, xây mới cao tốc phía Nam quy mô dự kiến 6 làn xe với điểm đầu đường Vành đai 4, điểm cuối tại cảng hàng không thứ hai vùng Thủ đô.
Đồng thời, xây mới, nâng cấp, cải tạo các tuyến quốc lộ trong phạm vi vành đai 4 đạt tiêu chuẩn đường đô thị. Xây dựng, hoàn thiện các trục giao thông đô thị; khép kín các tuyến đường vành đai; phát triển một số tuyến mới nhằm tăng cường kết nối giao thông giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong khu vực.
Bên cạnh đó, phát triển hệ thống đường tỉnh, đường liên huyện, đường huyện đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hoàn thành các trục: Tây Thăng Long, Hồ Tây – Ba Vì; đường trục Bắc Nam và đường kết nối khu vực Ứng Hòa, Phú Xuyên; đường trục Hà Đông – Xuân Mai, Ngọc Hồi – Phú Xuyên. Xây dựng các nút giao thông khác mức tại các giao cắt của hệ thống đường vành đai, đường trục chính đô thị. Hoàn thiện hệ thống cầu vượt sông Hồng, sông Đà, sông Đuống, sông Đáy và xây mới các cầu vượt sông đồng bộ với quy mô của các tuyến đường quy hoạch; nghiên cứu phương án kết hợp cầu đường sắt và cầu đường bộ vượt sông. Từng bước nghiên cứu xây dựng hành lang giao thông dọc hai bên sông Hồng, sông Đáy và các sông khác kết hợp chỉnh trị lòng sông, tạo không gian phát triển mới khu vực hai bên bờ sông.
Đầu tư hệ thống bến xe liên tỉnh mới phù hợp với quá trình mở rộng và phát triển đô thị, từng bước chuyển đổi công năng, di dời các bến xe trong khu vực vành đai 3. Bố trí quỹ đất hợp lý (bao gồm cả các không gian ngầm) để xây dựng các điểm đỗ xe, bãi đỗ xe phù hợp nhu cầu từng khu vực, gắn với hệ thống công trình dịch vụ, công viên cây xanh.
Các bến xe khách được quy hoạch mới gồm: Bến xe khách liên tỉnh phía Đông Bắc (vị trí giao giữa QL1A với QL5, huyện Gia Lâm); Bến xe khách Đông Anh (tại khu vực gần nút giao vành đai đô thị và QL3); Bến xe liên tỉnh phía Bắc (khu vực sân bay Nội Bài); Bến xe khách Yên Sở (quận Hoàng Mai); Bến xe khách phía Nam (ga Ngọc Hồi); Bến xe khách phía Nam (Pháp Vân – Cầu Giẽ, nằm sát QL1A mới); Bến xe khách liên tỉnh phía Tây (huyện Quốc Oai); Bến xe khách liên tỉnh Phùng (giao giữa QL32 và đường Vành đai 4). Ngoài ra còn có các bến xe khách: ga Phú Xuyên, Xuân Mai, Nam Hòa Lạc, Bắc Hòa Lạc, Sơn Tây, Sơn Tây 2, Nam Sóc Sơn, Bắc Sóc Sơn.
Phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng đáp ứng được cơ bản nhu cầu của người dân; mở thêm các tuyến mới, đặc biệt các tuyến liên kết vùng, bảo đảm kết nối thuận tiện giữa các loại hình phương tiện giao thông công cộng để thay thế phương tiện giao thông cá nhân; bố trí quỹ đất tại các khu vực phù hợp để xây dựng các trạm sạc cho xe điện và các trạm xe đạp công cộng.
Về đường sắt, đầu tư xây dựng 14 tuyến đường sắt đô thị và 2 tuyến đường sắt nhẹ (monorail). Ưu tiên các tuyến kết nối nội đô với cảng hàng không, khu công nghệ cao, các khu đô thị, các đầu mối giao thông lớn, các điểm có nhu cầu di chuyển cao trong khu vực nội đô. Nghiên cứu phương án kết nối mạng lưới đường sắt đô thị với một số trung tâm các tỉnh trong vùng.
Theo đó, các tuyến xây dựng mới gồm: Tuyến số 01 (Ngọc Hồi – Yên Viên – Lạc Đạo); tuyến số 01A (Ngọc Hồi – cảng hàng không thứ hai); tuyến số 02 (Nội Bài – Nam Thăng Long – Trần Hưng Đạo – chợ Mơ – Ngã Tư Sở - Hoàng Quốc Việt và đoạn kéo dài đến Sóc Sơn); tuyến số 2A (đoạn Hà Đông – Xuân Mai); tuyến số 03 (đoạn ga Hà Nội – Hoàng Mai và đoạn Nhổn – Sơn Tây); tuyến số 04 (Mê Linh – Sài Đồng – Liên Hà); tuyến số 05 (Văn Cao – Hòa Lạc); tuyến số 06 (Nội Bài – Phú Diễn – Hà Đông – Ngọc Hồi); tuyến số 07 (Mê Linh – Dương Nội – Hà Đông); tuyến số 08 (Sơn Đồng – Mai Dịch – Vành đai 3 – Lĩnh Nam – Dương Xá); tuyến số 09 (Mê Linh – Cổ Loa – Dương Xá); tuyến số 10 (Cát Linh – Láng Hạ - Lê Văn Lương – Yên Nghĩa); tuyến số 11 (Vành đai 2 – Trục phía Nam – Cảng hàng không thứ hai); tuyến số 12 (Sơn Tây – Hòa Lạc – Xuân Mai – Phú Xuyên).
Hai tuyến đường sắt monorail xây dựng mới gồm: Tuyến M1 (Liên Hà – Tân Lập – An Khánh); tuyến M2 (Mai Dịch – Mỹ Đình – Văn Mỗ - Phúc La; Phú Lương – Thanh Liệt – Giáp Bát).
Phát triển tổ hợp Ngọc Hồi bao gồm: nhà ga, Depot, trạm bảo dưỡng... của đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị. Nghiên cứu phương án đón, trả hành khách giữa tổ hợp Ngọc Hồi với trung tâm Hà Nội.
Phân bố hệ thống ga đường sắt đô thị tại khu vực trung tâm hợp lý, phù hợp với định hướng cải tạo và phát triển đô thị theo mô hình TOD; phát triển vận tải đa phương thức tại các ga đường sắt đô thị.
Về đường thủy nội địa, phát triển các tuyến đường thủy nội địa trên hành lang vận tải thủy Quảng Ninh - Hải Phòng - Hà Nội, Hà Nội - Nam Định - Ninh Bình và Hà Nội - Việt Trì - Lào Cai; nâng cấp, cải tạo các tuyến có tiềm năng phát triển du lịch. Phát triển đồng bộ các luồng đường thủy nội địa có quy mô cấp V để phục vụ du lịch, thoát nước, thủy lợi và tạo cảnh quan môi trường đô thị.
Xây dựng hệ thống cảng, bến đồng bộ theo các tuyến vận tải và phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội. Phát triển 5 cụm cảng hàng hóa gồm: cụm cảng trung tâm Hà Nội, cụm cảng Bắc Hà Nội, cụm cảng Nam Hà Nội, cụm cảng Đông Hà Nội và cụm cảng Tây Hà Nội. Không phát triển cảng, bến hàng hóa tại hữu ngạn sông Hồng trong khu vực Vành đai 3. Xây dựng các cảng, bến hành khách, hàng hóa, chuyên dùng dọc các tuyến sông trên địa bàn thành phố khi có nhu cầu và tuân thủ quy định.
Về cảng cạn, phát triển hệ thống cảng cạn gắn với các đầu mối vận tải lớn (cảng hàng không, ga đường sắt, cảng thủy nội địa) để hình thành các trung tâm logistics cấp vùng và quốc gia tại khu vực phía Đông Nam, phía Bắc và Tây Bắc.
Mở rộng sân bay Nội Bài, nghiên cứu xây dựng sân bay thứ hai tại khu vực Đông Nam
Về cảng hàng không, sân bay, nâng cấp, mở rộng Cảng hàng không quốc tế Nội Bài có công suất phục vụ 60 triệu hành khách/năm và 2,0 triệu tấn hàng hóa/năm vào năm 2030; đến năm 2050, có công suất phục vụ 100 triệu hành khách/năm và 5,0 triệu tấn hàng hóa/năm.
Nghiên cứu xây dựng cảng hàng không thứ hai tại khu vực Đông Nam, Nam Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu phát triển vùng Thủ đô sau năm 2030 với chức năng hỗ trợ cho cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Vị trí, các chỉ tiêu quy hoạch của cảng hàng không thứ hai hỗ trợ Cảng hàng không quốc tế Nội Bài sẽ được nghiên cứu, xác định trong giai đoạn trước năm 2030.
Ngoài ra, tên, vị trí, quy mô, diện tích đất sử dụng, tổng mức đầu tư, nguồn vốn, hình thức đầu tư của các cảng hàng không, sân bay sẽ được xác định cụ thể trong từng giai đoạn lập dự án đầu tư, tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng cân đối và huy động vốn đầu tư của từng thời kỳ.
Cùng với đó, nâng cấp, mở rộng, bổ sung chức năng lưỡng dụng cho các sân bay quân sự Gia Lâm, Hòa Lạc.