Đề xuất đổi mới quy trình, rút ngắn thời gian ban hành luật tới 12 tháng
Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) đề xuất đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giúp rút ngắn thời gian ban hành từ 22 tháng xuống còn 10 tháng.
Bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp xã
Tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày tờ trình về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi).
Dự thảo luật lần này có bố cục gồm 8 chương, 72 điều, giảm 9 chương, 101 điều so với Luật năm 2015.
Dự thảo tập trung 7 vấn đề đổi mới quan trọng, mang tính đột phá về quy trình xây dựng pháp luật, trong đó, tiếp tục đơn giản hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường kiểm soát quyền lực; phân định rõ thẩm quyền lập pháp và lập quy.
Đáng chú ý, dự thảo bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã; bổ sung 1 hình thức nghị quyết của Chính phủ; thay đổi từ quyết định sang thông tư của Tổng Kiểm toán nhà nước.
Ngoài ra, luật còn đổi mới việc xây dựng chương trình lập pháp của Quốc hội; đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Dự thảo luật tách bạch quy trình chính sách với việc lập chương trình lập pháp hằng năm; phân định rõ hơn quy trình chính sách và quy trình soạn thảo (cơ quan trình quyết định chính sách, Quốc hội quyết định dự thảo).
Đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách gồm 4 bước cơ bản, trên cơ sở chính sách được thông qua thì sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình gồm 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu.
Với quy trình này, có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 tháng xuống 10 tháng.
Sửa đổi, bổ sung quy định xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn ở bất kỳ bước nào của cả quá trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo; đề cao tính tự quyết định, chịu trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan soạn thảo.
Thời gian để xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn chỉ khoảng 1 - 2 tháng (giảm được 6 - 8 tháng).
Bổ sung quy định Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp đặc biệt khi được sự đồng ý của Bộ Chính trị đối với trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp hoặc sự cố, thảm họa theo quy định của pháp luật về phòng thủ dân sự hoặc sự kiện bất khả kháng hoặc các vấn đề cấp bách, quan trọng của đất nước.
Thể hiện trách nhiệm đến cùng trong xây dựng luật
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết Ủy ban tán thành việc sửa đổi toàn diện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, Ủy ban đề nghị tiếp tục rà soát để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, nhất là với các dự án luật khác được Quốc hội xem xét, thông qua tại cùng Kỳ họp.
Ủy ban Pháp luật thống nhất với cơ quan trình dự án về việc lược giảm hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã; bổ sung nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật; thay đổi hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Tổng Kiểm toán nhà nước từ quyết định sang thông tư.
Về quy trình Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo luật, nghị quyết, Ủy ban Pháp luật cơ bản tán thành với định hướng các dự án luật, nghị quyết về nguyên tắc sẽ được xem xét, thông qua trong một kỳ họp nhằm đẩy nhanh tiến độ ban hành nhưng vẫn bảo đảm chất lượng của văn bản.
Theo đó, sau khi Quốc hội thảo luận, cơ quan trình dự án có trách nhiệm tiếp thu ý kiến để hoàn thiện dự thảo; cơ quan chủ trì thẩm tra tiếp tục có ý kiến phản biện, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến; trên cơ sở dự thảo đã được tiếp thu, hoàn thiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo việc trình Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua nếu đủ điều kiện.
Trường hợp dự thảo chưa được thông qua và Quốc hội quyết định cho lùi thời điểm thông qua để tiếp tục hoàn thiện, trình thông qua tại kỳ họp tiếp theo hoặc trình lại thì cơ quan trình dự án tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện.
Cơ quan chủ trì thẩm tra tiếp tục có ý kiến phản biện, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến và báo cáo Quốc hội quyết định việc thông qua.
Theo ông Tùng, việc quy định như vậy đã thể hiện được trách nhiệm đến cùng của cơ quan trình dự án, trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với việc xem xét, cho ý kiến, chỉ đạo công tác tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản cũng như trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có ý kiến, phản biện đến cùng để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét, cho ý kiến, thông qua đối với dự thảo luật, nghị quyết.
Bên cạnh đó, để bảo đảm chất lượng luật, nghị quyết, Ủy ban Pháp luật đề nghị nghiên cứu, bổ sung các quy định nhằm phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong quy trình xem xét, cho ý kiến và thông qua dự thảo luật, nghị quyết.
Chẳng hạn như lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội trong quá trình xây dựng chính sách, tổ chức soạn thảo; tổ chức hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách để thảo luận, cho ý kiến về dự án luật, nghị quyết trước khi cơ quan trình chính thức trình dự án…