Để nông nghiệp sớm thoát khỏi 'vùng trũng' về khoa học công nghệ

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn do biến đổi khí hậu và chi phí sản xuất tăng cao, việc tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ (KHCN) là ưu tiên hàng đầu để giải quyết các thách thức này. Trong đó, gỡ bỏ rào cản chính sách, đưa nông nghiệp thoát khỏi 'vùng trũng' về công nghệ là vấn đề được Kiểm toán nhà nước (KTNN) nhiều lần đề cập và các chuyên gia đặc biệt quan tâm…

Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã tập trung vào các sản phẩm chủ lực, giải quyết bức xúc thực tiễn. Ảnh TL

Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã tập trung vào các sản phẩm chủ lực, giải quyết bức xúc thực tiễn. Ảnh TL

Khoa học, công nghệ đóng góp quan trọng vào tăng trưởng nông nghiệp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của KHCN, đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng về tăng cường đưa KHCN vào nông nghiệp, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã đưa ra rất nhiều chính sách và giải pháp nhằm ứng dụng KHCN vào sản xuất, nuôi trồng, từ đó gia tăng giá trị, hình thành sản xuất theo chuỗi, sản phẩm ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường.

Theo TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy (nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), thời gian qua, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã tập trung vào các sản phẩm chủ lực, giải quyết bức xúc thực tiễn như: chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng, kháng bệnh và chống chịu; xây dựng quy trình canh tác, gói kỹ thuật theo chuỗi trong sản xuất các sản phẩm chủ lực; quy trình phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng chủ lực…

KHCN đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Ảnh: N.Lộc

KHCN đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Ảnh: N.Lộc

Nhiều nhiệm vụ đặt hàng các sản phẩm với yêu cầu và chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật định lượng rõ ràng, đảm bảo tính ứng dụng thực tiễn của sản phẩm tạo ra và khả thi thương mại hóa. Giai đoạn 2013 - 2020 có 529 giống mới, 185 sáng chế được công nhận, 224 tiêu chuẩn kỹ thuật, 440 quy trình kỹ thuật được ban hành.

Các kết quả nghiên cứu được ứng dụng, chuyển giao vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã xuất hiện với sự đầu tư mạnh của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn…, từ đó góp phần to lớn vào tăng trưởng, sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.

10 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn; trong đó, KHCN đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi.

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 190,03 tỷ USD, tốc độ tăng GDP toàn ngành đạt bình quân 2,65%/năm. Riêng năm 2024, tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,3%; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% và thặng dư thương mại 17,9 tỷ USD, tăng 46,8%.

Theo ông Nguyễn Mai Dương - Cục trưởng Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo (Bộ KHCN), KHCN đã đóng góp có hiệu quả vào phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế.

Nhờ ứng dụng KHCN, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới như: Năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (gấp 1,5 lần Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới...

Tăng cường hoạt động tuyên truyền, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới cho nông dân để nâng cao hiệu quả sản xuất. Ảnh TL

Tăng cường hoạt động tuyên truyền, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới cho nông dân để nâng cao hiệu quả sản xuất. Ảnh TL

Đại diện đơn vị trực tiếp hướng dẫn, đưa công nghệ đến nông dân, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Lê Quốc Thanh cho biết, thời gian qua, nhiều kết quả nghiên cứu, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới đã được chuyển giao vào sản xuất thông qua hoạt động khuyến nông. Qua đó, người nông dân từng bước thay đổi nhận thức, ý thức về vai trò của KHCN và ứng dụng vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống.

Sớm gỡ vướng để khoa học công nghệ đến gần hơn với nông nghiệp

Đạt được những thành tựu đáng khích lệ, song so với nhiều lĩnh vực khác, nông nghiệp vẫn bị ví như “vùng trũng” trong ứng dụng KHCN, dù Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã nỗ lực đẩy mạnh việc đổi mới công tác quản lý khoa học, tăng cường ứng dụng KHCN trong nông nghiệp.

TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy cho rằng, thực tiễn quản lý thời gian qua đã nảy sinh nhiều bất cập trong việc sử dụng nguồn kinh phí cho KHCN. Chẳng hạn, việc thu hồi kinh phí sau khi chuyển giao sản phẩm nghiên cứu có sử dụng ngân sách được thực hiện theo Nghị định số 70/2018/NĐ-CP của Chính phủ, song khi áp dụng lại gặp vướng. Đơn cử, đối với kết quả sản phẩm dạng II, các quy trình công nghệ, kỹ thuật được chuyển giao cho đối tượng là nông dân, hợp tác xã (không vì lợi nhuận), vì vậy, không thu hồi được kinh phí.

"Những rào cản này khiến cho việc ứng dụng KHCN vào nông nghiệp vốn khó lại càng thêm khó" - TS. Thủy cho biết.

Cần sớm gỡ vướng trong quy định để tăng cường đưa sáng chế công nghệ mới vào nông nghiệp. Ảnh: N.Lộc

Cần sớm gỡ vướng trong quy định để tăng cường đưa sáng chế công nghệ mới vào nông nghiệp. Ảnh: N.Lộc

Những bất cập này cũng đã được KTNN chỉ ra qua thực tiễn kiểm toán thời gian qua.

Theo Phó Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành III Phạm Thành Ngọc, năm 2023, KTNN triển khai cuộc kiểm toán chuyên đề “Việc quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ giai đoạn 2020- 2022 tại các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương”, trong đó có Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Qua kiểm toán, KTNN đã chỉ ra nguyên nhân dẫn tới những bất cập trong việc sử dụng nguồn kinh phí cho KHCN là do cơ chế chính sách còn vướng mắc, thiếu đồng bộ, một số văn bản chậm sửa đổi hoặc chậm ban hành, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai phát triển KHCN; chưa có quy định về đấu giá tài sản là kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ; chưa có cơ chế để bảo vệ quyền lợi cho các tổ chức nghiên cứu công sở hữu các kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ như sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu thương mại.

Hiện cũng chưa có quy định về khung số lượng các nhiệm vụ KHCN và tổng mức kinh phí của từng Chương trình cấp quốc gia, dẫn đến tình trạng số lượng và kinh phí của các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tăng lên qua các năm. Việc phân bổ kinh phí sự nghiệp KHCN cho các nhiệm vụ còn dàn trải, giao nhiều lần trong năm, phần nào ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các nhiệm vụ KHCN...

Từ việc phát hiện những bất cập trong công tác quản lý, sử dụng kinh phí cho KHCN, nhằm tháo gỡ những nút thắt trong cơ chế chính sách về KHCN, KTNN đã kiến nghị Bộ KHCN rà soát các quy định tại Luật KHCN, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực KHCN để sửa đổi, nhằm đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong tổ chức thực hiện.

Trong bối cảnh Luật KHCN đang được đề xuất sửa đổi, vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW và Quốc hội ban hành Nghị quyết số 193/2025/QH15 với nhiều chính sách đột phá và được kỳ vọng sẽ giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay trong việc ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp.

Trong đó, một số chính sách nổi bật được đề cập như: tối ưu các quy định pháp luật liên quan đến KHCN, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo; giao cơ chế tự chủ cho các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu; chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học…

Liên quan đến việc đẩy mạnh KHCN vào nông nghiệp, tại Tọa đàm “Phát triển nông nghiệp thông minh: Đột phá từ Nghị quyết số 57-NQ/TW” diễn ra mới đây, TS. Trần Hồng Nguyên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp - cho biết, thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 193/2025/QH15 quy định nhiều nội dung chưa có tiền lệ, chẳng hạn, với quy định miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình, quy định trong quá trình nghiên cứu...

Đánh giá cao các quy định có tính đột phá tại hai nghị quyết này, PGS,TS. Nguyễn Ngọc Sơn (Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội) đề nghị, Nghị quyết số 193/2025/QH15 đã có hiệu lực ngay khi Quốc hội bấm nút thông qua. Do vậy, Chính phủ cần tập trung quyết liệt để triển khai Nghị quyết hiệu quả nhất bằng nhiều giải pháp đồng bộ.

Trong đó, Chính phủ cần rà soát các nghị định, thông tư hiện hành để loại bỏ quy định không phù hợp; cần nghiên cứu kỹ Điều 16 liên quan đến các quy định khác nhau về cùng một vấn đề và Điều 17 về quy định chuyển tiếp của Nghị quyết số 193/2025/QH15, làm rõ để thể chế hóa thành các quy định cụ thể, tạo cơ sở minh bạch, rõ ràng trong áp dụng./.

N.LỘC

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/de-nong-nghiep-som-thoat-khoi-vung-trung-ve-khoa-hoc-cong-nghe-38543.html
Zalo