Đẩy mạnh liên kết trong sản xuất nông nghiệp
Với hơn 1,4 triệu ha đất nông nghiệp, Nghệ An là địa phương có tiềm năng phát triển mạnh mẽ lĩnh vực nông nghiệp. Những năm gần đây, nhờ thực hiện liên kết giữa Nhà nước-nhà nông-nhà khoa học-doanh nghiệp nên nhiều mặt hàng nông sản không còn rơi vào cảnh được mùa, rớt giá.

Nông dân huyện Quỳnh Lưu làm chủ kỹ thuật trồng rải vụ, cho nên dứa được thu hoạch ở nhiều thời điểm, giá cao.
Không phải lo cảnh “Được mùa, rớt giá”
Những ngày này, dọc những triền đồi ở xã Tân Thắng (huyện Quỳnh Lưu), từ sáng sớm, nông dân đã tất bật thu hoạch dứa. Tân Thắng là địa phương có diện tích dứa lớn nhất tỉnh, với 1.432 ha. Dứa ở đây chủ yếu là giống Queen, MD2 và Cayeen; năng suất bình quân khoảng 41 tấn/ha.
Với 20 ha dứa trồng theo phương pháp hữu cơ, trong đó có 5 ha đạt chứng nhận GLOBAL GAP, gia đình anh Nguyễn Văn Thắng (xóm 1, Tổng đội thanh niên xung phong Quỳnh lưu) là hộ dân có diện tích dứa lớn nhất xã. Năm 2024, gia đình anh cung cấp cho chuỗi siêu thị Tiện ích Xanh và Bách hóa Sài Gòn 464 tấn dứa chất lượng, giá dao động từ 18 đến 20 nghìn đồng/kg.
Cũng ở xóm 1, Tổng đội thanh niên xung phong Quỳnh Lưu, với diện tích canh tác 13 ha, năm 2024, gia đình anh Nguyễn Đăng Tuyên thu hoạch khoảng 450 tấn dứa. Trong khi dứa được thương lái thu mua trên địa bàn xã chỉ 8.000 đồng/kg, thì dứa gia đình anh cung cấp cho hệ thống siêu thị và các công ty xuất nhập khẩu 380 tấn, giá 10.000 đồng/kg theo hợp đồng đã ký từ trước.
Theo Giám đốc Hợp tác xã Nông sản AE TA Đậu Phi Cảnh, năm 2019, do cung vượt cầu, dứa rớt giá mạnh. Có thời điểm, quả loại 1 chỉ còn 3.000 đến 4.000 đồng/kg. Năm 2022 cũng xảy ra tình trạng tương tự, khiến nông dân sản xuất bị thua lỗ nặng. Hợp tác xã hiện có 62 ha dứa/20 thành viên. Hợp tác xã chịu trách nhiệm cung cấp cây giống, kỹ thuật, giám sát và bao tiêu sản phẩm cho các thành viên và các hộ dân tham gia liên kết. Năm 2025, hợp tác xã sẽ cung cấp một nghìn tấn dứa cho các nhà máy chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu rau quả, tăng 300 tấn so với năm 2024. “Nhiều doanh nghiệp liên hệ nhưng chúng tôi phải dành nguồn hàng để giao cho các đơn vị đã ký kết”, Giám đốc Hợp tác xã Nông sản AE TA chia sẻ.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Thắng Dương Văn Nga thông tin: Dứa là cây trồng chủ lực, chiếm tỷ trọng hơn 72% thu nhập của ngành nông nghiệp xã. Trên địa bàn xã có hai hợp tác xã và hai công ty trách nhiệm hữu hạn làm đầu mối liên kết, tiêu thụ dứa cho bà con nông dân. Tham gia mô hình liên kết, nông dân phải tuân thủ quy trình-kỹ thuật, bảo đảm chất lượng sản phẩm, từ đó hoạt động sản xuất ngày càng được chuyên môn hóa. Đặc biệt, nhờ hợp đồng chặt chẽ, nông dân không phải lo lắng về đầu ra nông sản, chủ động được kế hoạch sản xuất, doanh nghiệp cũng làm chủ được nguồn nguyên liệu.
Tại thời điểm này, dứa MD2 có ngày lên đến 15 nghìn đồng/kg. Trong khi đó, giá dứa một số gia đình ký với đơn vị liên kết chỉ khoảng 10 nghìn đồng, song họ vẫn tuân thủ hợp đồng chặt chẽ, đây là điều rất phấn khởi. Nếu chạy theo giá trôi nổi của thị trường thì lên xuống rất bấp bênh. Còn liên kết thì giá cả ổn định, các doanh nghiệp chủ động được kế hoạch sản xuất, rất yên tâm.
Tại huyện Diễn Châu, mô hình trồng khoai tây liên kết cũng đang mang lại hiệu quả rõ nét. Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Diễn Kỷ Lê Văn Thuận phấn khởi cho hay: Với chín thành viên, đơn vị trồng 5 ha khoai tây trắng theo hình thức liên kết. Mỗi ha cho khoảng 18 đến 22 tấn củ. Với giá 8.000 đồng/kg khoai trắng và 8.500 đồng/kg khoai vàng, người dân thu về khoảng 150 triệu đồng/ha. Vụ khoai sắp tới, hợp tác xã đăng ký mở rộng diện tích lên 15 ha và sẽ xây dựng các cánh đồng mẫu.
Lãnh đạo Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Diễn Châu cho biết: Toàn huyện có hơn 60 ha khoai tây; trong đó 32 ha khoai tây trắng liên kết với Tập đoàn Orion. Mô hình trồng khoai tây trắng theo hình thức liên kết bắt đầu được triển khai từ năm 2020. Thời điểm đó, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Nghệ An cũ) chọn một số hợp tác xã để triển khai mô hình. Viện Sinh học Nông nghiệp (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) vừa cung cấp giống, hướng dẫn kỹ thuật trồng cho người dân; đồng thời, đại diện cho Tập đoàn Orion để bao tiêu sản phẩm. Năm đầu triển khai, khoai cho năng suất cao, lại được doanh nghiệp thu mua ngay tại ruộng với giá 7.000 đồng/kg, từ đó ngày càng có nhiều thành viên của các hợp tác xã đăng ký tham gia mô hình.
Nếu nông dân huyện Diễn Châu liên kết trồng khoai tây, nông dân huyện Quỳnh Lưu liên kết trồng dứa, thì nông dân ở huyện miền tây Nghệ An-Con Cuông lại chọn hướng đi liên kết trồng cây dược liệu. Trong số 15 ha diện tích liên kết của xã Châu Khê, thôn 2/9 trồng diện tích nhiều nhất với 57 hộ trồng khoảng 10 ha cà gai leo. So các loại cây trồng khác, cà gai leo mang lại thu nhập cao, ổn định hơn.
Trưởng thôn 2/9 Phan Đình Thuận nhẩm tính: “Với giá 4.500 đồng/kg tươi, sau khi trừ chi phí, mỗi năm người dân sẽ thu về khoảng 130 đến 150 triệu đồng/ha cà gai leo. Trong khi đó, nếu trồng mía, lợi nhuận chỉ khoảng 35 đến 40 triệu đồng/ha”.
Hiện nay, mỗi năm Hợp tác xã Dược liệu Pù Mát trồng và thu mua khoảng 400 tấn nguyên liệu để sản xuất các dòng sản phẩm trà túi lọc, trà hòa tan, cao… Giám đốc Công ty cổ phần Dược liệu Pù Mát Phan Xuân Diện chia sẻ: Tới đây, khi nhà máy sản xuất đông dược được xây dựng xong, công ty sẽ mở rộng diện tích liên kết để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu sản xuất.
Yếu tố then chốt để phát triển bền vững
Thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 13/2018/NQ-HĐND ngày 12/12/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nghệ An là một trong những địa phương ban hành sớm chính sách này.
Căn cứ Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 15/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025, tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2025.
Mục tiêu đến hết năm 2025, tỷ lệ giá trị sản phẩm nông, lâm, thủy sản được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết trên địa bàn tỉnh đạt 30%, bằng mục tiêu Chính phủ giao.
Song song với việc ban hành các chính sách và ưu tiên nguồn lực để thực hiện, Nghệ An đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp về sự cần thiết liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, từng bước hình thành các chuỗi giá trị hiệu quả; chú trọng kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm OCOP,…
ới nhiều giải pháp, lũy kế đến nay, toàn tỉnh đã có 40 dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được phê duyệt hỗ trợ theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP và Nghị quyết số 13/2018/NQ-HĐND tỉnh Nghệ An với 40 hợp tác xã và 21 doanh nghiệp tham gia liên kết. Quy mô thực hiện liên kết gần 4.400 ha diện tích đất, với hơn 16 nghìn hộ dân tham gia.
Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An, việc liên kết sản xuất đã góp phần hình thành được nhiều chuỗi sản xuất tập trung, quy mô lớn. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 278 hợp tác xã (chiếm 38,5% số hợp tác xã nông nghiệp toàn tỉnh), 120 tổ hợp tác và 139 trang trại có hoạt động liên kết sản xuất với các doanh nghiệp. Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông, lâm, thủy sản được sản xuất dưới các hình thức liên kết trên địa bàn tỉnh có sự tăng đều qua các năm và đến năm 2024 đạt 27,6% (đạt 92% so mục tiêu Trung ương giao đến năm 2025). Dự kiến đến hết năm 2025 sẽ đạt mức 30%.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An Võ Thị Nhung: Việc liên kết sản xuất theo chiều ngang giữa các hợp tác xã, tổ hợp tác, các hộ nông dân với nhau và liên kết theo chiều dọc giữa doanh nghiệp với các hợp tác xã, tổ hợp tác, nông dân với nhau đạt được nhiều kết quả khả quan, nhưng cũng còn không ít hạn chế. Quá trình vận động nhân dân tập trung ruộng đất để thực hiện sản xuất hàng hóa quy mô lớn, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm còn khó khăn, các hợp tác xã, doanh nghiệp còn lúng túng trong việc góp đất, thuê đất để sản xuất. Nhiều hợp tác xã hoạt động thụ động, số hợp tác xã hoạt động sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị còn ít, quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm hạn chế…
Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp quy mô nguồn vốn hoạt động còn hạn hẹp, trong khi đó các chính sách đều hỗ trợ sau đầu tư dẫn đến khó khăn cho các hợp tác xã trong việc huy động nguồn vốn thực hiện, dẫn tới một số dự án không thanh toán hết kinh phí hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra còn có những khó khăn phát sinh trong việc lập, hoàn thiện hồ sơ thanh toán kinh phí hỗ trợ…
Theo đại diện lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An, thời gian tới, Trung ương và tỉnh cần tiếp tục ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện các chính sách được ban hành; đồng thời, xem xét ban hành các chính sách hỗ trợ đẩy mạnh liên kết sản xuất phù hợp giai đoạn hiện nay. Các địa phương cần tăng cường tuyên truyền, phối hợp để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên kết sản xuất trên địa bàn. Tới đây, khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp thì Ủy ban nhân dân cấp xã cần khẩn trương nắm bắt, tiếp quản các chức năng, nhiệm vụ được phân công, phân cấp để tiếp tục triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ trên địa bàn. Căn cứ các quy định để chủ động tổ chức thực hiện các dự án, kế hoạch liên kết, bảo đảm quyền lợi cho các đối tượng thụ hưởng.
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp, bà Nhung khuyến nghị, cần chủ động đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động theo hướng hiệu quả, bền vững và phù hợp quy định của Luật Hợp tác xã 2023. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng chuỗi liên kết sản phẩm, hợp tác với doanh nghiệp để mở rộng thị trường, thực hiện tốt vai trò đại diện và hỗ trợ thành viên.