Đất học Kim Sơn sinh 5 hiền tài

Làng Kim Sơn, tên Nôm là làng Then thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm (nay là xã Gia Lâm, Hà Nội), không chỉ là đất phát quan với những Tể tướng, Thượng thư mà còn nổi tiếng là 'cái nôi' của những vị đại khoa nức tiếng thiên hạ.

Đình Kim Sơn - nơi thờ hai danh tướng nhà Đinh là Cao Điền Công và Cao Đỗ Công.

Đình Kim Sơn - nơi thờ hai danh tướng nhà Đinh là Cao Điền Công và Cao Đỗ Công.

Kim Sơn hiện còn ngôi đình, gồm nhà tiền tế 3 gian nối với đại đình 5 gian, bằng tòa phương đình. Đình thờ Cao Điền Công và Cao Đỗ Công - hai vị tướng có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước.

Thời đó, vùng đất này gọi là “Trang viên Kim Sơn”, được miêu tả là vùng đất “có đất đai bằng phẳng, cây cối xanh tươi, nước không sâu mà mạch nguồn dồi dào, có thế như hổ chầu, rồng uốn khúc”.

Thực ấp của danh tướng nhà Đinh

Truyền thuyết kể rằng hai anh em Điền Công, Đỗ Công chính là thiên thần, trời cho đầu thai vào gia đình ông Cao Trạch và bà Lê Thị, vốn người nhân đức nổi tiếng khắp vùng. Khi hai anh em 18 tuổi, đất nước loạn ly, dân tình khổ cực vì nạn cát cứ của 12 sứ quân. Nghe Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở động Hoa Lư, hai anh em liền tìm tới ra mắt.

Vua Đinh thấy hai người khôi ngô, tuấn tú liền nhận ngay, phân Điền Công vào ban văn, Đỗ Công vào ban võ. Chỉ một thời gian ngắn, hai anh em đã dẹp yên 7 sứ quân, 5 sứ quân hùng mạnh còn lại do chính tay Đinh Tiên Hoàng bình định. Từ đó nhân dân yên ổn làm ăn, ấm no vui vẻ.

Lúc này hai vị truyền cho binh sĩ cùng nhân dân Kim Sơn lập một doanh cư, chiêu mộ các dân ly tán, không phân biệt giàu nghèo tới đây khai phá, sửa sang nghề nông, chăn tằm dệt cửi, lấy nhân nghĩa thuận hòa mà cấu kết làng xóm. Nhân dân Kim Sơn ấm no, hạnh phúc nên sau đó họ cùng tòng quân đi đánh quân Chiêm, khiến đại quân xâm lược này thua chạy về nước.

Vua Đinh thưởng công và cấp đất Kim Sơn cho hai tướng Điền Công, Đỗ Công. Một ngày khi hai ông cùng quân sĩ trở về Kim Sơn thì trời bỗng nổi cơn giông tố, hai ông cùng hóa. Từ đó, nhân dân Kim Sơn lập đền thờ cúng. Hiện nay, ngôi đình vẫn lưu giữ được 17 sắc phong của các triều phong cho hai vị tướng quân. Hàng năm cứ đến ngày sinh và ngày mất của hai vị, dân làng lại mở hội tri ân và gắn kết tình làng nghĩa xóm.

Theo nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính (Viện Dân tộc học và Tôn giáo học), cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, làng Kim Sơn thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Kim Sơn nằm ven sông Đuống, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi từ xưa là nghề chính của dân làng, ngoài ra có buôn bán nhỏ.

Xưa kia, bến sông ở làng Giao Tự là nơi buôn bán sầm uất với những mặt hàng từ biển mang đến như mắm, muối, cá, tôm, cua; những bè tre, lá gồi, nứa, gỗ từ trên rừng xuôi về, người bán kẻ buôn tấp nập, trên bến dưới thuyền.

Là một làng nông nghiệp, nhưng cơ cấu tổ chức của Kim Sơn trước năm 1945 không dựa vào thiết chế giáp, mà lấy lớp tuổi để phân bổ thực hiện việc làng. Đây là một hiện tượng mà giới nghiên cứu đánh giá là rất hiếm có trên vùng châu thổ Bắc Bộ. Nằm trong cái nôi của miền đất học Kinh Bắc xưa, dưới thời phong kiến làng Kim Sơn nổi tiếng học giỏi và đỗ đạt cao.

Bởi vậy mà người trong trấn có câu: “Phú Thị chi nhất hạng tứ Thượng thư/ Kim Sơn chi ngũ hiền nhị vị Tể tướng” (làng Phú Thị đứng hàng đầu với 4 Thượng thư, làng Kim Sơn có 5 người hiền với 2 Tể tướng). Theo nguồn sử đăng khoa, 5 vị Tiến sĩ của làng Kim Sơn, gồm: Nguyễn Mậu Tài, Nguyễn Mậu Dị, Nguyễn Mậu Thịnh, Nguyễn Duy Viên, Nguyễn (Phạm) Khiêm Ích.

 Theo sử liệu đăng khoa, làng Kim Sơn có tới 5 vị đại khoa. Ảnh minh họa: INT.

Theo sử liệu đăng khoa, làng Kim Sơn có tới 5 vị đại khoa. Ảnh minh họa: INT.

Khai khoa Kim Sơn, xứng hàng Tể tướng

Nguyễn Mậu Tài (1616 - 1688), người đặt nền móng khoa bảng và cũng là vị đại khoa đầu tiên của Kim Sơn. Nguồn gia phả dòng họ cho biết, ông là người rất thông minh, năm 18 tuổi thi Hương đỗ Giải nguyên. Sau đó, ông đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Bính Tuất (1646).

Con đường làm quan của Nguyễn Mậu Tài từng kinh qua các chức vụ, như: Giám sát Ngự sử đạo Hải Dương rồi được thăng chuyển đạo Nghệ An, coi xét việc kiện cáo... Khi xử việc, ông tỏ rõ là người minh triết, coi xét nhanh chóng, công bằng và bao dung. Khi dẹp xong đạo Hưng Hóa, ông làm Đốc học trấn Hải Dương, Yên Quảng (Quảng Ninh ngày nay) rồi chuyển đến trấn Sơn Nam, Thanh Hoa.

Năm Mậu Tuất, niên hiệu Thịnh Đức (1658), Nguyễn Mậu Tài được sung Nội tán kết tri, làm Lễ bộ khoa Cấp sự trung. Sau đó, ông lại làm Tán lý Hải Dương, Yên Quảng và vẫn tham chính Sơn Nam. Đảm nhiệm tốt công việc, ông được thăng Thái bộc Tự khanh, làm Đốc đồng trấn Sơn Tây rồi lên Phó đô Ngự sử.

Năm Kỷ Dậu (1669), ông được phong Hữu Thị lang bộ Hộ kiêm Bồi tụng. Năm Tân Hợi (1671), ông chịu mệnh vua lên biên giới giáp Vân Nam, đưa lễ cảm ơn nhà Thanh vì đã bắt và trao trả hai tên giặc là Phúc Điền, Đỗ Đặng. Năm Bính Thìn (1676) đời Vĩnh Trị, ông làm Tham tụng (Tể tướng) phủ chúa rồi giữ chức Thượng thư Lễ bộ.

Không chỉ là vị quan tài năng, Nguyễn Mậu Tài còn nổi tiếng với tấm lòng thương dân, xót dân. Năm Đinh Tỵ (1677), ông cùng danh sĩ Hồ Sĩ Dương tâu vua xin giảm bớt những trường hợp công thần được phong ấm cho con cháu và định lại thể lệ miễn giảm thuế cho quan lại.

Nhiều việc bất hợp lý, Nguyễn Mậu Tài biện giải thỏa đáng, được vua Lê chúa Trịnh sửa đổi. Về việc này, sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” biên rằng: “Tháng 7 mùa Thu. Định rõ thể lệ phong ấm cho công thần văn võ và miễn lao dịch cho lại điển hoặc dân đinh.

Đầu niên hiệu Vĩnh Tộ, bầy tôi có quân công được dự phong “công thần”, phần nhiều được đời đời phong ấm. Đến nay, Tham tụng Nguyễn Mậu Tài và Hồ Sĩ Dương xin giảm bớt đi, bèn định rõ lại”.

Năm Nhâm Tuất (1682), có người làm sớ hặc Nguyễn Mậu Tài là bậc trọng thần mà để triều nghi thiếu quy củ. Chúa Trịnh vốn biết ông là người thuần cẩn, không có lỗi gì nhưng vốn đang muốn nghe những lời nói thẳng nên giáng ông làm Hộ bộ tả đường. Tuy nhiên, chỉ sau đó mấy năm, Nguyễn Mậu tài lại được phong làm Thượng thư Công bộ, gia tước An Lĩnh bá.

Bấy giờ, ông ngoài 70 tuổi cáo lão xin về, chúa Trịnh quyến luyến giữ lại, ban cho hậu ân nếu ốm mệt có sớ tâu, không phải vào chầu và năm chữ “Kỳ cựu trấn nhã tục”, nghĩa là tuổi già, làm quan đã lâu, đáng là tấm gương cho người nhã, kẻ tục.

Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú có nhận định: “Ông (Nguyễn Mậu Tài) là người trong sạch, nhã nhặn, đứng đắn, chắc chắn; đối với người không bao giờ gây oán. Bấy giờ, ai cũng tôn là người có đức và độ lượng”.

Làm quan trong triều hơn 40 năm, trước sau hơn 10 năm là Tể tướng, ông luôn cư xử rộng rãi, khoáng đạt, cúc cung tận tụy. Thân tuy quý hiển nhưng ông vẫn thanh bần, đạm bạc như bậc hàn sĩ, ở trong nhà thì nghiêm cẩn dạy dỗ con cháu.

Năm 73 tuổi, Tiến sĩ Nguyễn Mậu Tài lại xin về nghỉ nhưng chưa kịp về thì mất. Ông được truy tặng Lễ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo An quận công, ban tên thụy là Thuần Chất. Ngôi mộ Tể tướng Nguyễn Mậu Tài hiện nằm tại Đại Thanh (Hà Nội).

Sản sinh người hiền, danh chấn Trung Hoa

 Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Bính Tuất (1646) - năm Nguyễn Mậu Tài khai khoa cho làng Kim Sơn.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Bính Tuất (1646) - năm Nguyễn Mậu Tài khai khoa cho làng Kim Sơn.

Người thứ 2 của làng Kim Sơn đỗ Tiến sĩ chính là em trai Nguyễn Mậu Tài tên là Nguyễn Mậu Dị (1622 - 1704). Nguồn gia phả cho biết, khi hai anh em chưa thành danh thì ông cùng sống với anh trai Nguyễn Mậu Tài, ngôi nhà hai ông từng ở về sau được dùng làm nhà thờ họ Nguyễn đại tôn làng Kim Sơn.

Theo ghi chép, Nguyễn Mậu Dị đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659) niên hiệu Vĩnh Thọ. Văn bia khoa thi này do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Quý Đức vâng sắc nhuận, cho biết, khoa thi chọn 20 Tiến sĩ, Nguyễn Quốc Trinh làm Trạng nguyên, Nguyễn Mậu Dị đứng thứ 9 trong số 15 người đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Sau này, ông làm quan đến chức Lễ khoa Đô cấp sự trung.

Người thứ ba đỗ Tiến sĩ là Nguyễn Mậu Thịnh (sinh năm 1668), là cháu nội của Nguyễn Mậu Tài. Sau này, vì tránh húy niên hiệu Vĩnh Thịnh nên ông đổi tên là Nguyễn Mậu Áng... Ông đỗ khoa Tân Mùi (1691) niên hiệu Chính Hòa đời vua Lê Hy Tông. Năm 1715, đang giữ chức Lại khoa Cấp sự trung thì ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh.

Năm 1718, ông dâng tờ khải trình bày bốn việc: cấm xa xỉ, bãi bỏ việc xây dựng các công trình, bớt các việc du ngoạn, tinh giảm các cuộc tuần hành nặng tính du ngoạn. Nguyễn Mậu Thịnh làm quan đến chức Phó đô Ngự sử, tước Nam. Với hiệu là Di Trai, ông nổi tiếng đương thời về tài thơ văn, để lại cho đời 51 bài thơ chữ Hán chép trong sách “Toàn Việt thi lục”.

Người thứ tư đỗ Tiến sĩ là Nguyễn Duy Viên (sinh năm 1662), đỗ khoa Giáp Tuất (1694) niên hiệu Chính Hòa đời Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Thiêm đô Ngự sử, khi mất được tặng Hữu Thị lang bộ Công.

Người thứ năm của làng Kim Sơn đỗ Tiến sĩ là Nguyễn Khiêm Ích (1679 - 1741), là cháu nội của Nguyễn Mậu Tài, nhưng do làm con nuôi của người chồng bà cô ruột là Phạm Công Thiện, nên ông theo họ Phạm. Phạm Khiêm Ích đỗ Thám khoa năm Canh Dần (1710) niên hiệu Vĩnh Thịnh đời Lê Dụ Tông.

Năm 1723, ông làm Chánh sứ sang Trung Quốc mừng vua Ung Chính nhà Thanh lên ngôi. Khi tới Bắc Kinh, ông cùng mọi người trong đoàn dâng lên 3 bài thơ chúc mừng, được Ung Chính khen hay và mời vào yết kiến trong điện Càn Thanh, khiến cho người Trung Hoa lúc đó đều biết tên.

Trong bộ “Tạp kỷ” có miêu tả rằng: “Bọn Khiêm Ích yết kiến viên đề đốc nhà Thanh, nói chuyện về mặt trời, mặt trăng và năm sao ngũ đều liên lạc với nhau như chuỗi hạt châu, nhân đó dâng 3 bài thơ, nhờ viên đề đốc kính chuyển đạt lên nhà vua.

Vua Thanh ngợi khen và dụ bảo, lấy cớ rằng quốc vương (tức vua Lê) yêu chuộng văn học, tôn trọng đạo Nho, nên thưởng cho 3 bộ sách (gồm các bộ “Bội văn vận phủ”, “Uyên giám loại hàm”, “Cổ văn uyên giám”). Vua Ung Chính lại châu phê khen thưởng về lòng thành của sứ giả trong việc dâng thơ chúc mừng”.

Sử gia Phan Huy Chú trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, cho biết 3 bài thơ của sứ bộ lấy tên là “Nhật nguyệt hợp điểm, ngũ tinh liên châu”. Khi sứ đoàn tạ từ ra về đến Nam Kinh, đã sai người phi ngựa về nước trước để dâng khải trình cho chúa biết.

Đọc tin này, chúa Trịnh Cương bằng lòng lắm. Năm 1728, nhằm khoa Đông các, nhà vua đích thân ra đề. Phạm Khiêm Ích lại tham gia ứng thí đỗ cao, được vua cho cưỡi voi vinh quy về làng như người đỗ Trạng nguyên. Sau kỳ thi, ông được cho kiêm chức Đông các đại học sĩ.

Phạm Khiêm Ích trải nhiều chức quan trọng yếu, làm đến Tể tướng. Năm 1736, ông dâng chúa Trịnh Giang sách “Thẩm trị nhất lãm”, can ngăn việc xây dựng nhiều cung điện làm khổ dân, được chúa Trịnh rất khen ngợi.

Ông mất tại trấn Thanh Hoa năm 63 tuổi, được tặng Đại Tư không, ban tên thụy là Thuần Đạo. Văn chương và đức hạnh của Phạm Khiêm Ích được người đương thời ca ngợi, tác phẩm để đời có “Thẩm trị nhất lãm” và “Kính trai thi tập”.

Dân làng Then có câu “Lục bộ Thượng thư, Kim Sơn ngũ bán”, nghĩa là trong triều có sáu bộ thì người Kim Sơn chiếm năm chức rưỡi Thượng thư. Sở dĩ có “năm chức rưỡi Thượng thư” vì trước đó thân phụ Tiến sĩ Nguyễn Mậu Tài là Nguyễn Nhân Hải, từng làm quan đến chức Thị lang.

Ngoài năm người đỗ đại khoa, riêng dòng họ Nguyễn Mậu có tới tám người đỗ Hương cống thời Lê. Trong đó có Nguyễn Mậu Dĩnh đỗ Giải nguyên năm Đinh Mão (1747), sau lại đỗ thứ hai khoa Hoành từ. Nguyễn Mậu Dĩnh nổi tiếng là người hay chữ, được vua Lê ban tặng bốn chữ “Văn chương hữu dụng”. Ông từng cùng chú ruột Nguyễn Huệ Địch đốc xuất dân chúng canh giữ làng quê, chống lại cuộc xâm nhập của các toán phỉ trong các năm 1740 - 1746. Do vậy, làng Kim Sơn được tặng bốn chữ “Trung nghĩa danh lý”, hiện vẫn treo tại đình làng.

Trần Siêu

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/dat-hoc-kim-son-sinh-5-hien-tai-post748004.html
Zalo