Đào tạo lĩnh vực đặc thù, ĐH Văn hóa TP.HCM khó đạt một số tiêu chí theo chuẩn

Lĩnh vực văn hóa nghệ thuật không giàu tính nghiên cứu ứng dụng để có thể thương mại hóa nên tỉ trọng thu từ các hoạt động này của trường còn khá khiêm tốn.

Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện bảo đảm chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.

Theo quy định, các cơ sở giáo dục đại học phải chốt số liệu vào ngày 31 tháng 12 hằng năm; đối với số liệu về tài chính, thời điểm chốt số liệu là ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo.

Trên thực tế, quá trình triển khai, thực hiện theo Thông tư số 01 ở mỗi đơn vị sẽ có sự khác biệt. Để tìm hiểu rõ hơn về thuận lợi, hạn chế trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí tại Thông tư 01, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã ghi nhận chia sẻ của lãnh đạo Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.

Có nhiều chính sách để phát triển đội ngũ giảng viên trình độ cao

Chia sẻ với phóng viên, Phó giáo sư, Tiến sĩ Lâm Nhân - Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh cho biết các yêu cầu đặt ra trong Thông tư 01 đã tạo tiền đề quan trọng cho quá trình chuẩn hóa hệ thống giáo dục đại học, giúp nhà trường định hình lại chất lượng đào tạo theo các chuẩn mực tiên tiến.

Mặt khác, việc tuân thủ các tiêu chuẩn của Thông tư cũng góp phần nâng cao vị thế của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học, gia tăng khả năng cạnh tranh và thu hút nhiều sinh viên có chất lượng. Điều này không chỉ giúp mở rộng quy mô đào tạo mà còn tạo ra môi trường học thuật có tính hội nhập cao.

Để đáp ứng các yêu cầu theo Thông tư 01, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý và đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Theo đó, việc triển khai hệ thống phần mềm quản trị đại học đã giúp đơn vị tối ưu hóa công tác quản lý thông tin, đảm bảo dữ liệu được tích hợp đồng bộ và kịp thời trên hệ thống HEMIS. Điều này không chỉ nâng cao năng lực quản trị mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nhà trường trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục.

 Phó giáo sư, Tiến sĩ Lâm Nhân - Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh

Phó giáo sư, Tiến sĩ Lâm Nhân - Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh

Đối với yêu cầu về đội ngũ giảng viên tại Thông tư 01, thầy Nhân cho biết hiện nay tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đạt 34,6%, gần mức chuẩn tối thiểu 40% theo quy định của Thông tư 01. Dự kiến đến năm 2030, nhà trường có thể đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ theo quy định hiện hành.

Để đạt mục tiêu từ năm 2030 trở đi không thấp hơn 50%, nhà trường đã có nhiều chính sách để giữ chân, thu hút, cũng như phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ cao. Theo đó, bên cạnh việc hỗ trợ lương tăng thêm hàng tháng cho giảng viên trình độ tiến sĩ, học hàm giáo sư, phó giáo sư, đơn vị còn triển khai các chính sách chi trả toàn bộ kinh phí học ngoại ngữ và học phí nghiên cứu sinh, đồng thời có chính sách hỗ trợ tài chính sau khi giảng viên hoàn thành chương trình tiến sĩ.

“Cụ thể, với giảng viên nhận bằng tiến sĩ được tặng thưởng 15 lần lương tối thiểu; giảng viên có bài báo khoa học quốc tế nhận thưởng từ 20 - 50 triệu đồng/bài; giảng viên đăng ký đạt chuẩn phó giáo sư hoặc giáo sư được nhà trường chi trả toàn bộ chi phí và tặng thưởng 20-30 lần lương tối thiểu khi đạt chuẩn học hàm.

Về mức hỗ trợ lương tăng thêm hàng tháng, với giảng viên có học vị tiến sĩ được nhận thêm 1 triệu đồng/tháng; học hàm phó giáo sư là 1,5 triệu đồng/tháng và giáo sư là 2 triệu đồng/tháng”, thầy Nhân chia sẻ.

Lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật còn gặp khó ở một số tiêu chí

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, kết quả tích cực đã đạt được, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Hồ Chí Minh cũng cho biết đơn vị còn gặp khó ở một số tiêu chí tại Thông tư 01.

Theo đánh giá của thầy Nhân, lĩnh vực văn hóa nghệ thuật không giàu tính nghiên cứu ứng dụng để có thể thương mại hóa so với các ngành khoa học - công nghệ. Do đó, tỉ trọng thu từ các hoạt động này của nhà trường vẫn còn khá khiêm tốn.

Để tăng nguồn thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ, nhà trường đã triển khai các chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học như hỗ trợ tài chính mạnh mẽ cho công bố khoa học quốc tế và mở rộng hợp tác với các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước. Đồng thời đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, phát triển các chương trình nghiên cứu, tư vấn hoạt động văn hóa nghệ thuật, truyền thông và du lịch, cũng như thành lập các nhóm nghiên cứu chủ lực và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học ứng dụng.

Cụ thể, nhà trường đã triển khai nhiều chính sách khai thác tiềm năng của đội ngũ giảng viên và mở rộng hợp tác với các đơn vị bên ngoài như ký kết hợp tác với các địa phương về đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. Theo đó, đơn vị có thể linh hoạt hỗ trợ các địa phương trong đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, tổ chức các hoạt động phục vụ cộng đồng và tư vấn phát triển văn hóa - xã hội theo nhu cầu cụ thể của từng địa phương. Khi các địa phương có nhu cầu nghiên cứu hoặc thực hiện các đề tài/dự án khoa học, nhà trường có thể đảm nhận vai trò tư vấn, nghiên cứu và thực hiện các hợp đồng dịch vụ khoa học.

Thứ hai là đẩy mạnh các chương trình đào tạo ngắn hạn theo nhu cầu của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ đào tạo về chứng chỉ chức danh nghề nghiệp về văn hóa, thư viện, di sản; đẩy mạnh các khóa bồi dưỡng ngắn hạn, cập nhật kiến thức về quản lý văn hóa, phát triển du lịch cộng đồng, bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, văn hóa công sở, tổ chức sự kiện văn hóa- nghệ thuật,…. Những chương trình này không chỉ đáp ứng nhu cầu thực tế mà còn giúp nhà trường tăng nguồn thu từ dịch vụ đào tạo.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các giảng viên tham gia vào các hoạt động nghiên cứu có tính ứng dụng cao, nhà trường còn hỗ trợ về mặt thủ tục hành chính, đấu giá, đấu thầu các dự án khoa học và công nghệ để giúp giảng viên dễ dàng tiếp cận các nguồn tài trợ nghiên cứu từ địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Đồng thời cũng có chính sách mở rộng hợp tác với doanh nghiệp và các tổ chức trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, du lịch, bảo tồn di sản. Việc cung cấp các dịch vụ nghiên cứu, đào tạo và tư vấn cho các doanh nghiệp không chỉ giúp tăng nguồn thu mà còn mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nhà trường trong xã hội.

 Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh tăng cường hợp tác để đa dạng nguồn thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ. Ảnh: website nhà trường

Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh tăng cường hợp tác để đa dạng nguồn thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ. Ảnh: website nhà trường

Tại Tiêu chí 6.2, Tiêu chuẩn 6, Thông tư 01 có yêu cầu: Số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm; riêng đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù không thấp hơn 0,6 bài/năm trong đó số bài có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.

Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh nhà trường luôn tích cực đẩy mạnh hoạt động này nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên cũng như chất lượng đào tạo của đơn vị. Theo quy định, giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học (tương đương 586 giờ hành chính) để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, số liệu thống kê tại trường lại cho thấy số lượng thời gian đội ngũ giảng viên của nhà trường dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học đã vượt quá thời gian quy định, trung bình mỗi giảng viên vượt tới 290% (gấp 2,9 lần).

Về yêu cầu bài báo trong nước, mỗi giảng viên đều có từ 01 bài đăng trong danh mục Hội đồng Giáo sư nhà nước công bố. Tuy nhiên, số lượng công bố quốc tế có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus thì lại khá khiêm tốn. Trong 3 năm qua, nhà trường mới đạt được 15 bài Scopus Q3, chiếm 0,06%/giảng viên/năm.

Từ tình hình đó, thầy Nhân cho rằng Tiêu chí 6.2, Tiêu chuẩn 6 của Thông tư 01 đặt ra không ít thách thức đối với đơn vị. Trên thực tế, việc công bố bài báo quốc tế chưa phải là thế mạnh truyền thống của các trường lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nói chung. Bởi không giống như các ngành khoa học tự nhiên hay công nghệ, nơi nghiên cứu có thể dễ dàng được định lượng và chuẩn hóa theo các tiêu chí quốc tế thì các ngành nghệ thuật và văn hóa chủ yếu dựa vào nghiên cứu ứng dụng, sáng tạo và thực hành nghệ thuật nên sẽ gặp nhiều hạn chế trong việc công bố trên các tạp chí quốc tế.

“Hiện nay, đội ngũ phó giáo sư, giáo sư trong các trường thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể thao phần lớn đã cao tuổi, trong khi giảng viên trẻ có trình độ tiến sĩ lại chưa nhiều, dẫn đến nguy cơ khoảng trống về chất lượng nhân sự trong tương lai gần. Việc nghiên cứu và công bố khoa học yêu cầu một nền tảng kiến thức chuyên sâu cùng với kinh nghiệm nghiên cứu nhất định, trong khi đó, đội ngũ kế cận chưa có đủ điều kiện và thời gian để đạt được yêu cầu này. Chưa kể các tiêu chuẩn mới về công bố bài báo quốc tế và các điều kiện khác để đạt chuẩn phó giáo sư, giáo sư ngày càng cao đã khiến nhiều giảng viên trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật e ngại trong việc tham gia xét duyệt.

Bên cạnh đó là thực trạng nguồn tài trợ nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật không dồi dào như các ngành khoa học - công nghệ, dẫn đến việc thực hiện các nghiên cứu có chất lượng cao phục vụ cho công bố quốc tế gặp nhiều rào cản. Những khó khăn này không chỉ ảnh hưởng đến việc nâng cao số lượng công bố quốc tế mà còn tác động đến chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư”, thầy Nhân nêu quan điểm.

Đầu tư cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng đào tạo

Hiện nay, tổng diện tích đất của Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh là 30.000m2, quy mô đào tạo là 3.500 sinh viên. Với điều kiện này, Phó giáo sư, Tiến sĩ Lâm Nhân cho biết nhà trường cần mở rộng thêm diện tích xây dựng để đáp ứng yêu cầu: “Từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 25 m2”.

Trên thực tế, hiện trường đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đầu tư xây dựng cơ sở 2 tại số 288 Đỗ Xuân Hợp, phường Phước Long A, Thành phố Thủ Đức. Công trình bao gồm tòa nhà học lý thuyết 7 tầng với 48 phòng học có diện tích từ 50m² - 100m², 01 hội trường 250 chỗ; ký túc xá với 258 phòng có sức chứa lên đến 2.000 sinh viên. Tổng diện tích xây dựng lên đến 50.400m², tương ứng 14,4m²/sinh viên và được đưa vào sử dụng từ năm 2017. Kết hợp với Cơ sở 1 ở 51 Quốc Hương, phường Thảo Điền, Thành phố Thủ Đứcvới 31 phòng học, 01 nhà học thực hành sân khấu nhỏ, múa, piano, hội trường 650 chỗ đã đáp ứng một phần yêu cầu về diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo.

Về không gian làm việc của giảng viên, hiện tại các khoa đều có bố trí chỗ ngồi làm việc riêng cho giảng viên toàn thời gian, đảm bảo điều kiện cơ bản để giảng viên có môi trường làm việc hiệu quả.

 Hiện tại, Trường Đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh cơ bản đáp ứng một phần yêu cầu về diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo theo Thông tư 01. Ảnh: website nhà trường

Hiện tại, Trường Đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh cơ bản đáp ứng một phần yêu cầu về diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo theo Thông tư 01. Ảnh: website nhà trường

Tuy nhiên, thầy Nhân cũng trăn trở rằng do là đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo một phần chi thường xuyên nên nhà trường vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong việc chủ động sửa chữa, nâng cấp cơ sở vật chất, đặc biệt là các hạng mục cần sửa chữa kịp thời để đảm bảo chất lượng dạy và học. Việc mua sắm tài sản mới cũng gặp hạn chế do phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và các thủ tục hành chính phức tạp, gây chậm trễ trong quá trình triển khai các kế hoạch nâng cấp.

Vậy nên, để đáp ứng tốt hơn các tiêu chí về cơ sở vật chất và điều kiện làm việc cho giảng viên, nhà trường đang triển khai nhiều giải pháp mang tính chiến lược.

Trước tiên, nhà trường đã và đang thực hiện đề án trình cơ quan quản lý cấp trên để hướng đến mô hình tự chủ đảm bảo chi thường xuyên. Việc chuyển đổi sang cơ chế này sẽ giúp trường chủ động hơn trong việc đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp hạ tầng và cải thiện điều kiện giảng dạy, học tập mà không phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước.

Song song đó, trường đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước để huy động nguồn lực tài trợ cho các dự án nâng cấp cơ sở vật chất. Các chương trình hợp tác này không chỉ giúp nhà trường tăng cường trang thiết bị dạy học mà còn mở ra cơ hội thực tập, thực hành chất lượng cao cho sinh viên.

Nhà trường cũng có kế hoạch tái cấu trúc và tối ưu hóa việc sử dụng không gian sẵn có, đảm bảo mỗi đơn vị trong trường đều có đủ không gian làm việc phù hợp. Việc ứng dụng công nghệ trong quản lý tài sản cũng đang được xem xét để giúp quá trình kiểm kê, thanh lý và mua sắm tài sản trở nên hiệu quả hơn, khắc phục những hạn chế về nhân sự và thủ tục hành chính hiện nay.

Ngoài ra, nhà trường tiếp tục đề xuất, tranh thủ nguồn đầu tư hỗ trợ từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính để cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất theo đúng lộ trình phát triển.

“Với những giải pháp trên, nhà trường đặt mục tiêu đáp ứng các tiêu chí theo Thông tư 01 và hướng đến việc tạo dựng môi trường học tập và làm việc chất lượng cao, góp phần nâng tầm vị thế của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học”, thầy Nhân bày tỏ.

ĐÀO HIỀN

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/dao-tao-linh-vuc-dac-thu-dh-van-hoa-tphcm-kho-dat-mot-so-tieu-chi-theo-chuan-post249789.gd
Zalo