Dân tộc Tày ở Sơn La
Dân tộc Tày ở tỉnh Sơn La có trên 200 hộ và gần 800 nhân khẩu. Phần đông người Tày cư trú ven các thung lũng, triền núi thấp ở khu vực của tỉnh. Mỗi bản có từ 15-20 gia đình, tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái – Kađai).
Dân tộc Tày có nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau, như trong phạm vi gia đình có thờ tổ tiên, thờ Bà mụ, Phật Bà Quan Âm, Táo quân, ngoài bản thì thờ thổ thần, một số bản có thờ thành hoàng, một số nơi còn xây chùa để thờ Phật. Các nghi lễ vòng đời cũng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày.
Nhà ở truyền thống của dân tộc Tày gồm ba dạng cơ bản: nhà sàn, nhà nửa sàn, nửa đất và nhà phòng thủ. Trong đó, nhà sàn là dạng nhà truyền thống phổ biến nhất với cấu trúc chung là loại nhà sàn năm gian, ba gian hoặc một gian, hai chái, mái chéo hình lưỡi rìu, thấp so với mặt sàn. Mái được lợp bằng cỏ gianh, lá cọ, nứa hoặc ngói. Nhà nửa sàn nửa đất là dạng nhà thích hợp với địa hình dốc, chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở vài nơi, nhất là khu vực trung du gần rừng núi. Nhà phòng thủ là dạng nhà đất có chức năng phòng, chống trộm cướp, thú dữ, chỉ có ở vùng biên giới Việt - Trung.
Trang phục của người Tày chủ yếu được làm bằng vải chàm đen, ít trang trí hoa văn. Y phục của nam giới gồm áo cánh bốn thân, xẻ ngực, buộc khuy nút vải, cổ tròn, ống tay áo nhỏ và dài, có hai túi ở hai bên vạt áo. Trang phục nữ, thường có hai chiếc áo, một chiếc áo cánh ngắn và một chiếc áo dài; quần hoặc váy, thắt lưng; khăn vấn tóc và khăn vuông đội trên đầu. Áo cánh là loại áo ngắn, mỏng, may bằng vải trắng hoặc màu sáng, mặc bên trong áo dài. Áo có bốn thân, xẻ ngực, cổ tròn, ống tay nhỏ, có hai túi nhỏ ở vạt áo. Áo dài là loại áo năm thân, có năm cúc bằng nút vải hoặc bằng đồng cài bên nách phải; thắt lưng dài quấn quanh bụng rồi buộc phía sau, buông dài xuống ngang kheo chân; cổ áo tròn; ống tay dài và hẹp.
Lương thực chính mà người Tày sử dụng để nấu ăn hằng ngày là gạo tẻ. Ngoài cơm tẻ ăn hằng ngày, người Tày còn sử dụng gạo tẻ và gạo nếp để nấu cháo, cơm lam, bún, cốm, rất nhiều món xôi và các loại bánh. Đặc biệt, dân tộc Tày có món bánh trứng kiến được xem là một đặc sản bởi nhân bánh được chế biến từ trứng của một loài kiến đen xây tổ trên cành cây đem xào với mỡ, muối, kiệu hay hành lá.
Dân tộc Tày có nền văn hóa phong phú, với các thể loại, thơ ca, múa nhạc. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượm, then, quan lang, lượn, hát ví, hát ru, hát đồng dao... Trong đó, Then được coi là một làn điệu dân ca đặc biệt, trước kia hầu như chỉ sử dụng trong nghi lễ dưới hình thức hát xướng và khi hát có thể kết hợp với cả múa và nhạc. Đàn tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Tày, như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày.