'Dân số vàng' vẫn có thể thành… vàng

Lợi tức về nhân khẩu học sẽ quay trở lại nếu chúng ta tăng được năng suất lao động. Đó chính là con đường giúp chúng ta hóa giải thách thức 'dân số chưa giàu đã già'.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Ảnh: N.K

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Ảnh: N.K

Nhìn kỹ bức tranh “dân số vàng”

Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ dân số vàng, với tỷ trọng người phụ thuộc chung (nhóm dân số từ 0-14 tuổi và nhóm dân số trên 65 tuổi so với nhóm dân số từ 15-64 tuổi) dưới 50% từ năm 2007. Tuy nhiên, chỉ bốn năm sau đó, chúng ta đã bắt đầu giai đoạn “già hóa dân số” (aging period) khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm trên 10% dân số và người từ 65 tuổi trở lên chiếm trên 7% dân số.

Theo Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, mất khoảng 26 năm để chuyển từ giai đoạn “già hóa dân số” sang giai đoạn “dân số già” (aged period). Theo nhiều thống kê, vào năm 2036, xã hội Việt Nam sẽ trở nên “già” với tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm trên 14% dân số, và ba năm sau đó, thời kỳ dân số vàng của chúng ta cũng kết thúc. Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 củng cố thêm những dự đoán trên. Theo đó, tỷ trọng dân số từ 15-64 tuổi và dưới 15 tuổi đều giảm lần lượt 0,6 điểm phần trăm và 1 điểm phần trăm so với năm 2019, chiếm lần lượt 67,4% và 23,3% dân số. Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 9,3%, tăng 1,6 điểm phần trăm so với năm 2019. Thêm vào đó, tổng tỷ suất sinh là 1,91 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế và giảm so với mức 1,96 con/phụ nữ của năm 2023.

Điều đáng nói, dường như, chúng ta chưa tận dụng tốt những lợi thế mà cơ cấu dân số mang lại. Tại cuộc hội thảo trực tuyến do Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển (DEPOCEN) tổ chức đầu tháng 3-2025, GS.TS. Giang Thanh Long, giảng viên cao cấp trường Kinh tế và Quản lý công, Đại học Kinh tế Quốc dân, đã chỉ ra các vấn đề về chính sách mà Việt Nam sẽ phải đối mặt.

“Để thực hiện “kỷ nguyên vươn mình”, hướng tới một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, cần tận dụng tối đa “cơ cấu dân số vàng” hiện có để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển, thay đổi vị thế thu nhập; bằng không, “già trước khi giàu” là điều khó tránh khỏi”, GS.TS. Giang Thanh Long kết luận.

Vấn đề đầu tiên (và lớn nhất) có thể là tình trạng “già trước khi giàu” khi việc tích lũy tài chính không đủ lớn để thích ứng với dân số già quá nhanh. Dựa vào dữ liệu của World Development Indicators (WDI) 2016, thu nhập đầu người theo sức mua tương đương của hơn 6% dân số trên 65 tuổi tại Việt Nam chỉ hơn 5.660 đô la Mỹ, còn rất xa mới đến mức thu nhập cao. Dữ liệu WDI 2023 về vị thế thu nhập của Việt Nam trong giai đoạn 1989-2023, dù có sự tăng lên về mức thu nhập, tới năm 2023, thu nhập bình quân đầu người của nước ta mới chỉ xấp xỉ 30% ngưỡng thu nhập cao. Như vậy, trong hai thập niên sắp tới, Việt Nam phải đạt được mức tăng trưởng cao, đều đặn, liên tục, để đạt được ngưỡng thu nhập cao vào năm 2045.

Vấn đề thứ hai là chậm cải thiện năng suất lao động sẽ làm cho “cơ cấu dân số vàng” về mặt kinh tế sớm kết thúc. Nghiên cứu của GS.TS. Giang Thanh Long và TS. Phạm Ngọc Toàn, Viện Khoa học lao động và xã hội năm 2017 dựa trên giả định cấu trúc thu nhập và tiêu dùng của người Việt Nam được duy trì như năm 2012 thì dân số già hóa nhanh sẽ khiến cho “cơ cấu dân số vàng” về kinh tế chỉ kéo dài tới năm 2018.

Vấn đề thứ ba liên quan đến “khoảng giữa mất tích” (missing middle) trong hệ thống bảo hiểm xã hội còn lớn, trong trường hợp của Việt Nam là 8 triệu người trong khoảng 14 triệu người (tương đương gần 60%) không có lương hưu, trợ cấp hàng tháng.

Vấn đề thứ tư là mô hình bệnh tật (disease patterns) nhiều thay đổi, nhu cầu chăm sóc có sự khác biệt lớn giữa các nhóm dân số trong khi dịch vụ chăm sóc còn chưa phát triển.

Cuối cùng, những hạn chế về năng lực/dân trí tài chính, số hóa, chức năng nhận thức suy giảm do tuổi tác... có thể là những rào cản với người cao tuổi - nhóm người tiêu dùng ngày càng tăng trong dân số - tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính.

“Để thực hiện “kỷ nguyên vươn mình”, hướng tới một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, cần tận dụng tối đa “cơ cấu dân số vàng” hiện có để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển, thay đổi vị thế thu nhập; bằng không, “già trước khi giàu” là điều khó tránh khỏi”, GS.TS. Giang Thanh Long kết luận.

Nền kinh tế chăm sóc toàn diện

Kinh tế bạc (silver economy hay grey economy) là thuật ngữ mà theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) là “một môi trường mà những người trên 60 tuổi tương tác và phát triển tại nơi làm việc, tham gia vào hoạt động sáng tạo, thúc đẩy thị trường với tư cách là người tiêu dùng và có cuộc sống lành mạnh, năng động, hiệu quả”. Nội hàm tương tự đang được thể hiện trong một thuật ngữ được khuyến khích hơn từ góc độ xã hội học: nền kinh tế chăm sóc (caring economy).

Theo GS.TS. Giang Thanh Long, nền kinh tế chăm sóc không chỉ hướng đến một cấu phần dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ hỗ trợ khác cho người cao tuổi mà nên được hiểu rộng hơn là một nền kinh tế quan tâm đáp ứng các nhu cầu quan trọng của người cao tuổi gồm: nhu cầu việc làm, nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu chăm sóc sức khỏe, nhu cầu tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế nói riêng và xã hội nói chung.

Muốn hiện thực hóa quan điểm của vị chuyên gia này, chiếc chìa khóa đầu tiên phải mở được cánh cửa chính sách. Chúng ta vẫn có thể khắc phục vấn đề “khoảng giữa mất tích” cho nhóm người sẽ trở thành người cao tuổi trong 10 hoặc 20 năm tới, thông qua kỷ cương chặt chẽ hơn trong việc tham gia bảo hiểm xã hội. Các quỹ đầu tư hưu trí tư nhân nếu được hình thành và vận hành tốt cũng sẽ tạo nên nguồn tài chính tích lũy cho những người đang còn làm việc trong một hoặc hai thập niên sắp tới.

Hiện trạng người cao tuổi Việt Nam phải trải qua khoảng một phần tư thời gian sống chung với bệnh tật sau 60 tuổi có thể được cải thiện ở những thế hệ người già tiếp theo, những người được sinh ra và trưởng thành trong điều kiện kinh tế tốt hơn trước. Cùng với đó, các chính sách khuyến khích vận động, tập luyện và chăm sóc từ khi còn trẻ sẽ giúp tăng cường sức khỏe của họ lúc về già.

Quan trọng nhất là việc đào tạo cả về kỹ năng nghề nghiệp, để người cao tuổi vẫn tiếp tục tham gia thị trường lao động, ở những ngành, lĩnh vực phù hợp và được định hướng. Chính điều này cũng sẽ thúc đẩy họ hoàn thiện các kỹ năng mềm về tài chính - đầu tư, số hóa, kéo dài năng lực tư duy, ghi nhớ... để sống khỏe, sống tự tin và có ích sau khi đã qua tuổi nghỉ hưu.

Đến đây, chúng ta sẽ buộc phải lật ngược lại vấn đề: làm thế nào để tạo không gian và nguồn lực thực thi các chính sách hỗ trợ cho người lao động khi về già trong khi các khó khăn hiện hữu trong cuộc sống của họ vẫn đang tồn tại? Câu trả lời có thể nằm ở kết luận đã nêu của GS.TS. Giang Thanh Long, đó là cần tận dụng tối đa “cơ cấu dân số vàng” hiện có.

Nhiệm vụ này vẫn đang khả thi bởi lẽ theo TS. Phạm Ngọc Toàn, lợi tức về nhân khẩu học có thể quay trở lại nếu chúng ta tăng được năng suất lao động. Trong giai đoạn 2023-2030, nếu năng suất lao động tăng trung bình 6,5%/năm thì lợi tức về nhân khẩu học có thể xuất hiện trở lại.

Việt Nam đang xây dựng một kỷ nguyên vươn mình với động lực chính là tăng năng suất lao động thông qua ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nếu mục tiêu này được hiện thực dần dần trong những năm sắp tới, việc xoay chuyển và điều hướng nền kinh tế thích ứng chủ động với xã hội “tóc bạc” sẽ giúp giảm thiểu gánh nặng, khai thác được các cơ hội của giai đoạn dân số già, thậm chí, siêu già.

Hoàng Hạnh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/dan-so-vang-van-co-the-thanh-vang/
Zalo