Đảm bảo doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm

Sáng 23/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội nghe Chính phủ và cơ quan thẩm tra báo cáo về dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung Phiên họp

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung Phiên họp

Đề cập sự cần thiết ban hành dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long cho biết: Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, trước yêu cầu mới từ thực tiễn quản lý và hội nhập quốc tế, kịp thời khắc phục những hạn chế, tồn tại của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp hiện hành tại Luật số 69/2014/QH13, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, Chính phủ trình dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp thay thế Luật số 69/2014/QH13 là cần thiết.

Bám sát nội dung Chính phủ đã đề xuất khi xây dựng chính sách và đăng ký chương trình xây dựng pháp luật năm 2024 tại các Tờ trình số 189/TTr-CP ngày 26/4/2024 của Chính phủ, Tờ trình số 79/TTr-BTC ngày 17/4/2024 của Bộ Tài chính và nội dung Báo cáo số 257/BC-CP ngày 20/5/2024 của Chính phủ đã được Quốc hội thông qua khi đề xuất xây dựng Luật.

Quốc hội nghe Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long báo cáo về dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Quốc hội nghe Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long báo cáo về dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Phạm vi điều chỉnh của Luật số 69/2014/QH13 có nội dung “sử dụng vốn nhà nước”, “đầu tư vào sản xuất, kinh doanh” thể hiện sự chi tiết, bó hẹp về cách tiếp cận, hạn chế tính tự chủ của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn, tài sản trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; còn thể hiện sự can thiệp hành chính của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp; chưa bao quát được công tác quản lý dòng vốn của nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; đồng thời chưa bao gồm nội dung sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Do đó, cần thiết điều chỉnh phạm vi theo hướng không quy định cụ thể nội dung “sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp”. Theo đó, việc sử dụng vốn, tài sản được quy định theo hướng “đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp”; các quy định về huy động vốn; mua, bán, sử dụng tài sản cố định; quản lý nợ phải thu, phải trả được giao cho doanh nghiệp quyết định nhằm xác định rõ Nhà nước là chủ sở hữu đầu tư vốn, quản lý theo phần vốn góp tại doanh nghiệp, không can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp; tăng cường phân cấp mạnh gắn với trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp.

Về đối tượng áp dung khi xây dựng chính sách đã xác định “Doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư khác” là doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp 100% vốn điều lệ. Trong quá trình nghiên cứu cụ thể khi xây dựng dự thảo Luật, để đảm bảo thống nhất với nguyên tắc nhà nước quản lý theo dòng vốn đầu tư và theo đúng phần vốn góp tại doanh nghiệp, trên cơ sở ý kiến đề nghị của các doanh nghiệp, các Bộ, ngành, đơn vị có liên quan, Chính phủ thống nhất dự thảo Luật không đưa đối tượng doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư khác vào trong phạm vi điều chỉnh của Luật và giao cho doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước chịu trách nhiệm. Theo đó, tại Điều 2 dự thảo về đối tượng áp dụng gồm: (1) Doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp, tổ chức tín dụng do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (không bao gồm: Bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng chính sách); (2) Cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn, người đại diện chủ sở hữu vốn tại các doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp và tổ chức tín dụng do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; (3) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long

Thay mặt cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) Lê Quang Mạnh cho biết, Ủy ban TCNS cơ bản tán thành với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp thay thế Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69). Ủy ban nhận thấy, quy định của dự thảo Luật sẽ góp phần thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (DNNN); đảm bảo DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, đầu tư vốn tại doanh nghiệp. Để hoàn thiện Dự thảo Luật, Ủy ban TCNS đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát các quy định cụ thể trong Dự thảo Luật để thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ các chủ trương, nguyên tắc nêu trên.

Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng (Điều 1, Điều 2): Ủy ban TCNS nhận thấy, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng quy định tại dự thảo Luật đã bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định về DNNN của Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh các doanh nghiệp có trên 50% vốn nhà nước, hiện còn có những loại hình doanh nghiệp khác có vốn nhà nước đầu tư mà chưa được quy định trong phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật. Do vậy, đề nghị cần xem xét, bổ sung phạm vi quản lý, đầu tư vốn nhà nước để có các quy định có tính nguyên tắc trong Dự thảo Luật và đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước này với biện pháp, mức độ quản lý phù hợp.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước (Điều 9, Điều 10): Ủy ban TCNS thấy rằng, dự thảo Luật đã quy định chi tiết về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân cấp tỉnh và cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn. Ủy ban đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, quy định bảo đảm phù hợp với Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định pháp luật liên quan; bảo đảm thống nhất trong Luật về quyền, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ; quyền, trách nhiệm của Bộ Tài chính với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của doanh nghiệp (Điều 12): Ủy ban TCNS nhận thấy, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của doanh nghiệp trong dự thảo luật chưa bao quát hết các loại hình doanh nghiệp. Do vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo cần bổ sung quy định phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn theo nhóm, quy mô, loại hình doanh nghiệp, trong đó lưu ý có quy định riêng đối với một số loại hình doanh nghiệp đặc thù như doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh... Đồng thời đề nghị rà soát, hoàn thiện Điều 12 để quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của doanh nghiệp; bảo đảm đúng tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW, Kết luận của UBTVQH, thống nhất giữa quan điểm xây dựng Luật với các nội dung cụ thể quy định trong dự thảo Luật; làm rõ nguyên tắc nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan.

Các ĐBQH tham dự Phiên họp

Các ĐBQH tham dự Phiên họp

Về phân phối lợi nhuận và sử dụng Quỹ: Ủy ban TCNS nhận thấy, trích lập tối đa 50% lợi nhuận sau thuế vào Quỹ đầu tư phát triển để tại doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước đầu tư là phù hợp. Dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định về mục đích sử dụng Quỹ đầu tư phát triển để tại doanh nghiệp theo hướng sẽ được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Ủy ban TCNS nhất trí với dự thảo Luật; song, đề nghị bổ sung dự thảo Nghị định hướng dẫn thực hiện nội dung này để bảo đảm đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, Dự thảo Nghị định cần quy định cụ thể về thẩm quyền, quyết định, phạm vi, nội dung sử dụng Quỹ, đảm bảo nguyên tắc vốn nhà nước sau khi đã đầu tư tại doanh nghiệp được xác định là tài sản, vốn của doanh nghiệp.

Về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp (Chương III): Nội dung về vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp được quy định tại dự thảo Luật chủ yếu đưa ra các nguyên tắc xác định nguồn, phạm vi, điều kiện, hình thức đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp. Ủy ban TCNS đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, bảo đảm đúng tinh thần của Nghị quyết số 12-NQ/TW. Theo đó, chỉ tập trung đầu tư vốn vào một số DNNN hoạt động trong lĩnh vực then chốt, thiết yếu hoặc lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác không đầu tư.

Về sắp xếp, cơ cấu lại vốn đầu tư của nhà nước tại doanh nghiệp (Chương V): Ủy ban TCNS cơ bản tán thành với nguyên tắc sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp nêu tại Dự thảo Luật. Song, đề nghị Cơ quan soạn thảo rà soát, bổ sung một số nguyên tắc, đảm bảo đúng tinh thần của Nghị quyết số 12-NQ/TW như: áp dụng các phương pháp định giá tài sản tiên tiến phù hợp với cơ chế thị trường; bảo đảm vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp được định giá đầy đủ, hợp lý, công khai, minh bạch; bổ sung quy định xử lý các trường hợp định giá thấp tài sản, giá trị doanh nghiệp, gây thất thoát vốn nhà nước, quy định trách nhiệm của tổ chức tư vấn định giá độc lập trong định giá tài sản, vốn và xác định giá trị doanh nghiệp.

Bích Lan - Nghĩa Đức- Phạm Thắng

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=91220
Zalo