Đại tá Nguyễn Kiếm: Ký ức chiến trường và lời gọi từ dòng sông Thạch Hãn
Dịp kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 hàng năm, các cựu chiến binh trên khắp cả nước lại tập trung về Thành cổ Quảng Trị để thăm chiến trường xưa, nhớ lại những kí ức bi hùng. Nhưng rồi tuổi già đã khiến nhiều cựu chiến binh dù rất mong muốn, song không thể trở lại, chỉ kể chuyện bằng hồi ức như Đại tá, cựu chiến binh Nguyễn Kiếm, quê ở tỉnh Quảng Ngãi, nguyên Chủ nhiệm Trinh sát Trung đoàn 1, Sư đoàn 312. Ông cũng là người nhiều năm gắn bó với vùng biển Tây Nam để bảo vệ biên giới biển.

Đại tá, cựu chiến binh Nguyễn Kiếm. Ảnh: Lê Văn Chương
Hồn người bên sông
Gần cuối tháng 3/1972, người lính Nguyễn Kiếm, Chủ nhiệm Trinh sát Trung đoàn 1 có mặt tại vùng đất Quảng Trị. Ngày 30/3/1972, quân ta khai hỏa và nhanh chóng chiếm điểm cao 365. Căn cứ Tân Lâm (Carroll, đồi 241) thất thủ. Trung tá Phạm Văn Đính, Chỉ huy trưởng Trung đoàn 56 dẫn 1.500 lính ra đầu hàng, theo cách mạng (sau này, ông Đính mang quân hàm Đại tá QĐND Việt Nam). Đến ngày 1/5/1972, quân ngụy rút khỏi tỉnh Quảng Trị. Trên khắp trục đường từ Quảng Trị dẫn vào thành phố Huế ngổn ngang các loại thiết giáp, đó là xe tăng M48, pháo tự hành M107... Vậy rồi, những đoàn quân từ phía Bắc rầm rập tiến vào tiếp quản, trong số đó, chiếm phần lớn là sinh viên đang học tại các trường đại học.
Sau thắng lợi này, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chủ trương phát triển tiến công kết hợp với quần chúng nổi dậy, mở Chiến dịch Trị - Thiên, giải phóng luôn thành phố Huế. Tuy nhiên, địch rút đến cuối tỉnh Quảng Trị đã dừng lại bên bờ Nam sông Mỹ Chánh, thiết lập hệ thống phòng thủ để chặn quân ta vào thành phố Huế. Và đây là một trong những khúc sông đẫm máu, có biết bao nhiêu người lính đã ngã xuống.
Theo Ban liên lạc Mặt trận Quảng Trị 1972 tại Hà Nội, trong 81 ngày đêm (từ 28/6/1972 đến 15/9/1972), Sư đoàn 304 cùng với các đơn vị khác đã lập phòng tuyến phòng ngự phía Nam tỉnh Quảng Trị, từ cầu Mỹ Chánh theo quốc lộ 1A kéo dài đến thị xã Quảng Trị; phía Tây từ cao điểm 156 đến cảng Mỹ Thủy. Tuyến phòng ngự sông Mỹ Chánh trải dài đến thượng nguồn sông Thác Ma. Đã có hàng vạn cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế hy sinh, riêng Sư đoàn 304 có 1.752 chiến sĩ đã ngã xuống ở phòng tuyến sông Mỹ Chánh.
Từ sông Thạch Hãn đi theo quốc lộ vào phía Nam khoảng 60km thì gặp sông Mỹ Chánh. Từ cuối tháng 6/1972, địch từ phía Bắc sông Mỹ Chánh bắn phá ác liệt, với âm mưu tái chiếm tỉnh Quảng Trị. Đêm 27/6/1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Trị - Thiên quyết định ngừng tiến công, giữ vững vùng giải phóng. Quân ta đã thiết lập điểm phòng thủ kế tiếp là tại Thành cổ Quảng Trị nằm bên sông Thạch Hãn. Vậy là, từ ngày 28/6/1972 đến ngày 16/9/1972, những người lính phòng ngự tại Thành cổ Quảng Trị đã chiến đấu anh dũng và có khoảng 4.000 người lính đã không trở về.
Cựu chiến binh Nguyễn Kiếm mang trong mình rất nhiều vết thương trong suốt những năm tháng chiến tranh. Nhưng vết thương sâu nhất ẩn trong cơ thể của ông là tên, tuổi, quê quán, khuôn mặt của những người đồng đội đã sát cánh chiến đấu và nằm lại dưới dòng sông Thạch Hãn. Ông Kiếm kể, thời ấy, dù là chỉ huy, nhưng ông cũng trực tiếp bơi sang sông Thạch Hãn, vào ở lại Thành cổ Quảng Trị để chiến đấu với anh em. Trước khi bơi vượt sông vào Thành cổ Quảng Trị, có thời gian ông Kiếm và anh em chỉ huy đơn vị đóng quân trong căn hầm nằm dưới Dinh Tỉnh trưởng Quảng Trị. Bữa cơm dọn ra vẫn đều đặn là các loại lương khô 701, 703, 705, thỉnh thoảng có thêm món cơm sấy. Ông kể: “Lúc đó, toàn lính trẻ ngoài miền Bắc vô, là anh em sinh viên, mọi người nghĩ chắc sắp giải phóng tới nơi rồi, vậy nhưng càng về sau thì càng ác liệt hơn”.
Thời điểm đó, phần lớn nhà của người dân ở Quảng Trị là nhà thấp, lợp tôn, tường và hè chèn tấm ghi sắt. Nhưng do địch nã pháo liên tục, thị xã nhỏ bé gần như bị san phẳng, ông Kiếm và đồng đội đi tìm vài tấm tôn còn lành lặn để che hầm nhưng không có. Ngồi nghĩ tới từng khuôn mặt, ông nói: “Mấy năm trước, cứ tới tháng 7 là bác ra Quảng Trị để tiếp tục hỗ trợ việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở suốt khu vực sông Mỹ Chánh tới Thành cổ Quảng Trị, nhưng anh em hy sinh nhiều nhất là dưới dòng sông Thạch Hãn”.

Cứ vào tháng 7, hàng ngàn cựu chiến binh trở về thăm Thành cổ Quảng Trị. Và theo năm tháng, họ dần vắng bóng do tuổi cao, sức yếu. Ảnh: Lê Văn Chương
Người lính kiên cường
Đêm 15, rạng ngày 16/9/1972, những đơn vị bộ đội trụ lại tại Thành cổ Quảng Trị lần lượt rút sau 81 ngày đêm chiến đấu. Ông Kiếm và tổ trinh sát là những người ra cuối cùng. Đơn vị của ông bò đi giữa đống gạch nát vụn, xung quanh tràn ngập mùi của thuốc súng, vôi vữa, mùi của vết thương, mùi từ dòng sông Thạch Hãn bốc lên. Có 3 chiến sĩ bơi cùng ông, mọi người bỏ ba lô vào túi ni lông, cuộn lại và thả người, khoát nhẹ tay để hướng về phía bờ Bắc.
Ông Kiếm hồi tưởng, thời còn nhỏ, ngày nào cũng ra dòng sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi để nô đùa, bắt cá, còn giờ đây thì lại bơi vào lúc trời sắp sáng ở một dòng sông rất xa Quảng Ngãi. Thỉnh thoảng, bàn tay của ông Kiếm và đồng đội chạm vào một thân thể lạnh ngắt đang trôi trên sông. Có khi, những thân thể đó chỉ chạm vào tay ông rồi lại chìm xuống. Đó chính là những giây phút ông không bao giờ quên. Vì vậy, sau ngày giải phóng, ông Kiếm nhiều lần trở lại thăm sông Mỹ Chánh, rồi tới sông Thạch Hãn.
Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đại tá Nguyễn Kiếm tiếp tục khoác lên mình màu áo lính, nhận nhiệm vụ mới tại vùng biển Tây Nam – nơi luôn tiềm ẩn nhiều thách thức và biến động. Ông được phân công giữ chức Cụm trưởng Cụm đảo Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc, nay thuộc tỉnh An Giang), thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân. Đây là vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng, nằm gần tuyến hàng hải quốc tế, đồng thời cũng là nơi các lực lượng tàn quân Pol Pot thường xuyên xâm nhập, quấy phá.
Dưới sự chỉ huy của ông Kiếm, đơn vị Hải quân phối hợp chặt chẽ với các đơn vị BĐBP, dân quân địa phương và các lực lượng vũ trang khác, tổ chức các đợt tuần tra, phục kích, tấn công phản công kịp thời, đánh bại nhiều âm mưu xâm nhập, lấn chiếm đảo của Khmer Đỏ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường dày dạn từ Chiến dịch Trị - Thiên và Quảng Trị năm 1972, ông Kiếm đã chỉ huy đơn vị xây dựng thế trận phòng thủ liên hoàn, kiên cường bảo vệ vững chắc vùng biển đảo phía Tây Nam Tổ quốc. Không chỉ là người lính kiên cường nơi đầu sóng, ông còn là người lãnh đạo gần dân, hiểu dân. Khi tiếng súng tạm lắng xuống, ông cùng BĐBP và chính quyền địa phương tích cực vận động bà con ngư dân quay trở lại đảo, khôi phục sản xuất, đánh bắt hải sản, dựng lại những mái nhà, trường học, trạm xá. Trên những hòn đảo từng là chiến địa, ông Kiếm cùng đồng đội khơi nguồn sự sống mới, góp phần tạo dựng một cộng đồng cư dân biển đảo gắn bó, kiên cường, sẵn sàng bám biển, giữ đảo.