Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương - mốc son lịch sử

Nguyễn Túc - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt NamVào đầu những năm 1930, thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp hòng dập tắt phong trào cách mạng và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản bị giết, bị tù đày trong các nhà tù.

 Ảnh minh họa. Nguồn: ITN

Ảnh minh họa. Nguồn: ITN

Từ sự kiện lịch sử trọng đại...

Kiên định ý chí chiến đấu, biến nhà tù thành trường học, các chiến sĩ cộng sản đã tận dụng những ngày trong tù để học tập lý luận và văn hóa. Các đảng viên còn sống sót, dựa vào sự che chở, đùm bọc của quần chúng cách mạng, vẫn bí mật hoạt động nhằm khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng, củng cố và phát triển phong trào.

Năm 1932, theo Chỉ thị của Quốc tế cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong cùng một số đảng viên trong nước và ngoài nước thành lập Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6.1932, Ban lãnh đạo Trung ương công bố chương trình hành động của Đảng và của các tổ chức quần chúng.

Chương trình hành động của Đảng đề ra các yêu cầu trước mắt là:

1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, hội họp đi lại.

2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho các tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.

3. Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác.

4. Bỏ độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.

Đầu năm 1934, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu, làm chức năng của một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Ban có nhiệm vụ tập hợp các cơ sở đảng mới được thành lập hoặc được xây dựng lại ở trong nước thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị, triệu tập Đại hội Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 27- 31.3.1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu, thay mặt cho 600 đảng viên.

Đại hội nhận định: Hệ thống tổ chức của Đảng đã được phục hồi. Đó là một thắng lợi to lớn, các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo trong vài năm qua đều giành được thắng lợi ở mức độ khác nhau, khiến cho quần chúng công nông thêm hăng hái đấu tranh. Song, hệ thống của Đảng chưa thật thống nhất; sự liên hệ giữa các cấp bộ chưa thật thông suốt; tổ chức cơ sở của Đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng công nghiệp...

Đại hội nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu:

1. Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một thành lũy của Đảng; đồng thời, phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả khuynh” và “hữu khuynh”, giữ vững kỷ luật của Đảng.

2. Đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng, “Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thể lực của Đảng trong quần chúng”...

Muốn đưa cao trào cách mạng mới lên trình độ cao tới toàn quốc vũ trang báo động, đánh đổ đế quốc, phong kiến, lập nên chính quyền Xô viết thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. “Thâu phục quảng đại quần chúng là nhiệm vụ trung tâm căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời”.

3. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về Mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người... và thông qua Điều lệ của Đảng, Điều lệ các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 19 đồng chí do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương đã cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế cộng sản.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu chấm dứt thời kỳ đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở đến Trung ương. Đây là một điều kiện rất cơ bản và cần thiết để đưa Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới với một đội ngũ đã được tôi luyện.

... đến Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I đến Đại hội lần thứ II (tháng 3.1935 đến tháng 2.1951) là 15 năm. Đây là một trong 2 Đại hội có nhiệm kỳ lâu nhất trong khoảng thời gian đó; biết bao chuyển biến to lớn diễn ra trên thế giới cũng như ở Đông Dương.

Tháng 7.1936, sau khi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản về, đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì Hội nghị Trung ương họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng và nhân dân Đông Dương là: Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, đòi cơm áo, hòa bình.

Hội nghị quyết định chuyển hướng hình thức tổ chức từ bí mật, không hợp pháp sang công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp.

Ngày 29 và 30.3.1938, Ban Chấp hành Trung ương họp quyết định thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Tháng 11.1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Hội nghị quyết định điều chỉnh sự chỉ đạo chiến lược cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Hội nghị nhận định: Lúc này “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập” [1].

Để thực hiện nhiệm vụ trên, phải thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương để thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương.

Ngày 28.1.1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về đến Pắc Bó, trực tiếp lãnh đạo phong trào Cách mạng. Tháng 5.1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

Hội nghị nhận định: Trong lúc này Khẩu hiệu của Đảng ta trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... Nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Nhằm khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần dân tộc, Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật lấy tên là Việt Nam Độc lập, Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.

Hội nghị Trung ương quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và làm cờ của Tổ quốc khi “Thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng chính thức, trong đó Ban Thường vụ gồm đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư, các đồng chí Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt là ủy viên thường vụ.

Giữa lúc nhân dân ta đang tích cực phát triển lực lượng, gấp rút “sắm vũ khí đuổi thù chung” thì đêm 9.3.1945, Nhật gây ra cuộc đảo chính lật đổ Pháp, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng, nêu khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương.

Ngày 13.8.1945, Hội nghị cán bộ toàn Đảng họp ở Tân Trào, quyết định Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân đồng minh kéo vào Đông Dương.

Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đã thành công. Ngày 2.9.1945, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa long trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

[1] Văn kiện Đảng 1930 -1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977, tập 3, trang 56.

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-i-cua-dang-cong-san-dong-duong-moc-son-lich-su-post403008.html
Zalo