Đại đội trưởng Lê Triệu trong trận chiến ở Ia Đrăng
Đại tá Ngô Nhật Dương, nguyên Trưởng phòng Lịch sử Hậu cần-Kỹ thuật quân sự, Viện Lịch sử Quân sự (nay là Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam), từng viết trong cuốn 'Lê Triệu - Cuộc đời là chiến trận'.
Những trang viết ấy cùng những câu chuyện mà cha tôi - Đại tá Lê Triệu, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 66, Sư đoàn 1 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam - kể lại về quãng thời gian ông sống và chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, đặc biệt là trận đánh đầu tiên thắng quân Mỹ tại bãi đáp 1 (X-Ray) ở thung lũng Ia Đrăng trong Chiến dịch Plei Me, trở thành những bài học lịch sử quý giá đối với thế hệ con cháu.

Bìa cuốn sách “Lê Triệu - cuộc đời là chiến trận”. Ảnh: qdnd.vn
Sáng 14-11-1965, Đại đội 1 và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 7) nhận lệnh tập kích địch tại bãi đáp 1, Ia Đrăng. Tối hôm ấy, dù bộ đội vừa trải qua chặng hành quân dài, mệt mỏi, nhưng khi nghe đồng chí Lê Triệu, Đại đội trưởng Đại đội 1 quán triệt ý nghĩa và tầm quan trọng của trận đánh, toàn đơn vị đều nêu cao quyết tâm chiến đấu. Dưới tán rừng Tây Nguyên đen đặc trong đêm, người đi sau dễ lạc đội hình, để khắc phục, chiến sĩ lấy chất lân tinh từ thân gỗ mục gài lên ba lô làm vật chuẩn. Cả đơn vị hành quân trong im lặng, xuyên qua địa hình bị phi pháo địch cày xới, cây đổ ngổn ngang khiến việc dẫn đường của chiến sĩ giao liên vô cùng khó khăn. Vì thế, theo kế hoạch là 2 giờ ngày 15-11 nổ súng, nhưng phải đến 5 giờ, đơn vị mới tiếp cận được vị trí của quân Mỹ tại khu vực bãi đáp 1. 10 phút sau, lệnh nổ súng vang lên.
Từ 3 hướng, Tiểu đoàn 7 đồng loạt tiến công vào khu vực máy bay trực thăng đổ quân của địch. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại đội trưởng Lê Triệu, Đại đội 1 phát triển tiến công mãnh liệt. Quân địch chống trả quyết liệt bằng súng máy M60, súng phóng lựu M79 và cối 81mm, từ các vị trí thuận lợi bắn chặn, gây thương vong cho ta. Bộ đội nhiều lần phải dừng lại để chấn chỉnh đội hình. Khi quân Mỹ lọt vào tầm bắn, hỏa lực cối, B40, AK và lựu đạn của ta đồng loạt giội xuống. Lợi dụng ánh sáng từ pháo sáng và đèn dù, cán bộ, chiến sĩ bám từng gốc cây, ụ mối, cơ động áp sát, nhằm từng tên địch mà diệt.
Lúc này, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7, Lữ đoàn 3, Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 của Mỹ do Trung tá Harold G. Moore chỉ huy bị hỏng máy thông tin, không liên lạc được với phi pháo yểm trợ. Tận dụng thời cơ ấy, bộ đội ta phát huy sở trường đánh gần, dùng lựu đạn, AK, lưỡi lê, dao găm tiêu diệt địch. Sau khoảng 10 phút giáp chiến, Đại đội 1 cơ bản chiếm được trận địa; xác lính Mỹ nằm la liệt. Địch phải dùng máy bay vận tải lớn - “cần cẩu bay” CH-47 tới thu xác. Bị tổn thất nặng, chúng liền gọi pháo 105mm bắn cấp tập vào trận địa. Bộ đội ta cơ động lui quân, củng cố lực lượng.
Sáng 16-11, quân Mỹ tổ chức phản công dữ dội nhưng bị ta đánh bại. Đến trưa, Tiểu đoàn trưởng Harold G. Moore buộc phải rút khỏi bãi đáp 1, kết thúc trận đánh đầu tiên giữa Quân giải phóng Việt Nam và quân Mỹ tại chiến trường Tây Nguyên-trận Ia Đrăng vang dội, mở đầu trang sử mới cho nghệ thuật tác chiến của Quân đội ta trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Sau chiến thắng ấy, từ tháng 12-1965 đến tháng 3-1969, đồng chí Lê Triệu lần lượt được bổ nhiệm làm Phó tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 66, rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Đặc công thuộc Sư đoàn 1 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau này, ông công tác tại Cục Quân huấn (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) cho đến khi nghỉ hưu.
Trận đánh Ia Đrăng đã đi vào lịch sử như một minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ và ý chí kiên cường của bộ đội Việt Nam. Với riêng tôi, đó không chỉ là trang sử của dân tộc mà còn là ký ức thiêng liêng về cha-người chỉ huy quả cảm, một đời gắn bó với chiến trường và đồng đội.




























