Chiến dịch Plei Me - 'chìa khóa' giải bài toán đánh Mỹ
Năm 1965, theo kế hoạch của Bộ Tổng Tư lệnh, Sư đoàn 1 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ được thành lập trên chiến trường Tây Nguyên. Tuy nhiên, trước tình hình Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, trong đó có Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 Mỹ lên đóng tại An Khê, kế hoạch thành lập bị hoãn lại. Dù vậy, đội hình Sư đoàn 1 Quân giải phóng vẫn kịp lập nên chiến công vang dội trong Chiến dịch Plei Me, mở đầu cho thế trận 'đánh Mỹ và thắng Mỹ' ngay từ những ngày đầu.
Trại huấn luyện biệt kích Plei Me của địch được xây dựng theo hình tam giác đều, mỗi cạnh hơn 1.000m, với hơn 400 tên biệt kích ngụy và gần 40 cố vấn Mỹ chỉ huy. Đêm 19-10-1965, tiếng bộc phá xé toang màn đêm trên điểm cao Chư Ho, mở đầu cuộc tiến công của ta. Chỉ 5 phút sau, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 33, Sư đoàn 1) làm chủ căn cứ tiền đồn án ngữ phía Đông Trại huấn luyện biệt kích Plei Me, chính thức khởi đầu cuộc vây hãm căn cứ này.

Lính Mỹ đổ bộ xuống Ia Đrăng trong Chiến dịch Plei Me năm 1965. Ảnh tư liệu
Sau 4 ngày bị bao vây chặt, địch buộc phải tung lực lượng cứu viện. Với chiến thuật “vây điểm, diệt viện”, Trung đoàn 320 của Sư đoàn 1 đã đánh tan Chiến đoàn 3 thiết giáp, tiêu diệt tiểu đoàn biệt động quân và Tiểu đoàn 1 bộ binh thuộc Trung đoàn 42 ngụy. Thất bại nặng nề buộc quân Mỹ phải trực tiếp nhảy vào cuộc chiến bằng chiến dịch “tìm-diệt”.
Ngày 28-10-1965, Lữ đoàn 1, Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 Mỹ thực hiện chiến thuật “nhảy cóc” thăm dò lực lượng của ta. Các trận đụng độ liên tiếp nổ ra giữa Sư đoàn 1 Quân giải phóng và quân Mỹ. Ngày 1-11, quân Mỹ tập kích Trạm xá Trung đoàn 33. Các bác sĩ, y tá cùng thương binh, bệnh binh đã chiến đấu kiên cường, tiêu diệt 60 tên địch. Sau hơn hai tuần bị đánh thiệt hại nặng, Lữ đoàn 1 Mỹ rút khỏi Chư Prông, thay vào đó là Lữ đoàn 3 Mỹ. Tiếp tục với thói chủ quan, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7 Mỹ nhảy xuống bãi đáp 1 (X-Ray) và vấp phải đòn đánh quyết liệt của ta.
Từ ngày 14 đến 16-11, Trung tá Harold G. Moore, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7 trực tiếp chỉ huy đơn vị và chứng kiến thất bại thảm khốc. Gần 30 năm sau, ngày 19-10-1993, khi đã là Trung tướng Lục quân Mỹ trở lại thung lũng Ia Đrăng, Harold G. Moore được Thượng tướng Nguyễn Hữu An, người chỉ huy trận đánh năm xưa cho xem bản đồ chiến lệ của ta. Khi đó, Harold G. Moore mới hiểu rằng Quân giải phóng không hề dùng “biển người”, mà là tác chiến linh hoạt, táo bạo, hiệu quả. Từ đó, ông thừa nhận: “Quân giải phóng là một đội quân có kỷ luật, có lý tưởng vì đất nước nên chiến đấu rất dũng cảm, không ngại ác liệt, hy sinh”. Thiếu tá Charles Beckwith, chỉ huy lực lượng cố vấn Mỹ tại Plei Me cũng phải thừa nhận: “Chúng tôi chưa bao giờ gặp một quân đội nào giỏi như vậy!”.
Trưa 16-11-1965, sau 3 ngày bị Trung đoàn 66 của ta đánh tan tác, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7 Mỹ được lệnh rút khỏi bãi đáp 1 với chỉ còn chưa đầy 100 tên sống sót. Ngày 17-11, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 7 Mỹ do Trung tá Bob Mardaed chỉ huy lại bị Trung đoàn 66 tiêu diệt gọn. Tiếp đó, Trung đoàn 33 tiến công căn cứ địch ở Ia Mơ, tiêu diệt hàng trăm lính Mỹ thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 5, bắn rơi 7 máy bay, phá hủy 3 khẩu pháo 105mm. Kế hoạch “tìm-diệt” của quân Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
Chiến thắng Plei Me không chỉ đánh bại chiến thuật “tìm-diệt” của Mỹ mà còn mang ý nghĩa chiến lược sâu sắc. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam khẳng định: “Quân đội ta không có huân chương nào cao hơn Huân chương Quân công hạng Nhất, nhưng để xứng đáng với Chiến thắng Plei Me nên tặng chiến thắng này 2 Huân chương Quân công hạng Nhất”. Đây chính là câu trả lời đanh thép cho câu hỏi: “Có đánh được Mỹ không? Đánh như thế nào?”. Và Sư đoàn 1 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã chứng minh điều đó bằng thực tiễn chiến đấu.
Từ Plei Me, quân ta rút ra bài học quý giá về nghệ thuật chiến tranh nhân dân, đặc biệt là chiến thuật “bám thắt lưng địch mà đánh”. Càng áp sát quân Mỹ, ta càng hạn chế được bom, pháo của chúng, giảm thương vong và tạo nên nỗi khiếp đảm cho đối phương. Trong điều kiện thông tin liên lạc bị bom đạn cắt đứt, các đơn vị ta linh hoạt “lấy tiếng súng làm hiệu lệnh hiệp đồng”, dựa vào âm thanh vũ khí để phân biệt hướng địch, hướng ta, bảo đảm hiệp đồng chặt chẽ và hiệu quả.
Từ khi mở màn Chiến dịch Plei Me đến khi kết thúc, Quân giải phóng luôn giữ thế chủ động tấn công, buộc quân Mỹ-ngụy phải bị động đối phó. Với khẩu hiệu “thấy Mỹ là đánh, tìm Mỹ mà diệt”, Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 Mỹ đi đến đâu cũng bị đánh, nơi nào đến cũng gặp phải sức kháng cự quyết liệt. Chiến dịch Plei Me trở thành “chìa khóa” mở đầu cho phương thức tác chiến mới, góp phần làm sáng tỏ chân lý: Ta đã dám đánh Mỹ, biết đánh Mỹ và nhất định thắng Mỹ. Những bài học từ Plei Me vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác huấn luyện, xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.




























