Đại biểu: 'Thu hồi đất giá 1 triệu/m2, dân phải mua 100 triệu/m2 không phù hợp thực tiễn'
Đại biểu cho rằng việc thu hồi đất và giá đất thực tế dân mua khác nhau dẫn đến không phù hợp thực tiễn, có mâu thuẫn.
Sáng 19-11, Quốc hội thảo luận tại tổ về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai.
Một trong những điểm các đại biểu tập trung thảo luận là quy định bổ sung cho phép HĐND cấp tỉnh thu hồi phần đất còn lại nếu đã có 75% diện tích đất và 75% người sử dụng đất thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Đền bù chưa sát với thực tiễn
Đại biểu Hoàng Anh Công (đoàn Thái Nguyên) nêu hiện nay khi thu hồi thì giá đền bù là 1 triệu/m2 nhưng khi người dân mua đất giá lại tới 100 triệu/m2, đây là điều mâu thuẫn.
“Người dân không phải không muốn phát triển kinh tế - xã hội, không muốn những công trình lớn, đẹp nhưng vì đền bù, tái định cư không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Chúng ta cần nhìn thẳng sự thật để tháo gỡ khó khăn” - đại biểu Công nói.
Ông cũng quan tâm tới chế định liên quan tới 75% diện tích đất dự án đã thỏa thuận và 75% số người sử dụng đất đồng tình thì cho phép thu hồi 25% diện tích đất còn lại. “Trên 75%, tức còn nhiều nhất là 24,9% diện tích và số người sử dụng đất không đồng thuận. Tuy nhiên, 24,9% của dự án 5.000m2 khác với 24,9% dự án 1.000 ha; dự án vài hộ dân với dự án hàng nghìn hộ dân thì tỉ lệ 24,9% cũng khác nhau” - đại biểu Công phân tích.
Theo ông, nếu đánh đồng như thế có thể giải quyết được những việc nhỏ, dự án nhỏ nhưng những việc lớn, dự án lớn phải tính toán rất cụ thể, chi tiết. Đại biểu Công e ngại nếu không tính toán rõ ràng, cụ thể như vậy thì ông “mường tượng rằng khiếu nại tố cáo sẽ nhiều hơn”.

Đại biểu Hoàng Anh Công nêu ý kiến tại tổ. Ảnh: C.LUẬN
Quy định như vậy, theo đại biểu Công là "làm một cái áo mặc chung cho cả người to khỏe 100 kg với người 50 kg”. Ông đề nghị phải phân định rõ các trường hợp để giải quyết các vướng mắc thực tế. Đồng thời, ràng buộc các điều kiện để áp dụng quy định này chứ không thể để áp dụng tùy tiện; các chủ đầu tư có thể có nhiều biện pháp để đạt được tỉ lệ trên 75% thỏa thuận về diện tích và số người sử dụng đất đồng thuận.
Đại biểu Công cũng đề cập tình trạng có nhiều dự án xác đáng nhưng một vài người sử dụng đất “không đồng tình”, có khi còn yêu cầu “giá trên trời”, nhà đầu tư không thể chấp nhận được. “Ví dụ họ đòi 1 tỉ/m2 thì nhà đầu tư nào chịu nổi”- đại biểu Công nêu.
Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Quảng cũng cho rằng “phải cân nhắc rất kỹ quy định này về tính khả thi”.
“Tôi cho rằng trên thực tế, tâm lý chung của người dân bị thu hồi đất bao giờ cũng phải biết được phương án bồi thường của Nhà nước như thế nào, lúc đó người ta mới đồng ý hay không đồng ý” - Chánh án nói.
Rất phù hợp nhưng…
Ở góc độ khác, đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) lại thấy chế định bổ sung này rất phù hợp. Ông cho hay nước ngoài đã thỏa thuận là thỏa thuận, thu hồi là thu hồi.
"Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, rất nhiều dự án có diện tích thu hồi lớn, không phải thu hồi cá thể. Nếu hàng trăm người, hàng nghìn người sử dụng đất mà thỏa thuận được 99% rồi, chỉ còn một người không thỏa thuận được thì dự án phải dừng lại. Điều này cản trở phát triển, cản trở mục tiêu kế hoạch, quy hoạch” - đại biểu Cường nêu thêm lý do đồng tình với chế định bổ sung này.

Đại biểu Hoàng Văn Cường ủng hộ chế định như trong Dự thảo Nghị quyết nhưng lưu ý về giá đất cho 25% số người người sử dụng đất bị cưỡng chế. Ảnh: QH
Tuy nhiên, ông Cường cho hay, quy định hiện nay là thu hồi thì giá bồi thường bằng bảng giá nhân với hệ số điều chỉnh, còn thỏa thuận thì giá do hai bên thỏa thuận. Như vậy, 75% là một giá, còn 25% thu hồi lại là giá khác. “Rất dễ dẫn tới khiếu kiện” - ông nói.
Vì vậy, ông Cường đề nghị khi đạt được tỉ lệ 75% thì được quyền thu hồi nhưng phải áp dụng giá thỏa thuận – giá bình quân. Giá thỏa thuận này không được thấp hơn bảng giá nhân với hệ số điều chỉnh để tránh khiếu kiện và người bị cưỡng chế cũng được hưởng mức tương tự người đã thỏa thuận.
Với các trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng phải có phương án bồi thường, tái định cư, bố trí tái định cư trước khi thu hồi. “Trong nghị quyết lần này có sửa lại: Khi đạt 75% đồng ý với phương án bồi thường, tái định cư thì được thực hiện thu hồi. Tôi nhất trí nhưng 75% ở đây phải là 75% đồng ý với phương án bồi thường, tái định cư” - ông nói.
Đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà (đoàn Hà Nội) lại cho rằng tỉ lệ 75% nói trên là khá cao, khó đạt được trong thực tế, đặc biệt với các dự án lớn có nhiều hộ dân bị ảnh hưởng. “Việc này có thể dẫn đến tắc nghẽn và kéo dài thời gian thực hiện dự án” - ông nói.
Hơn nữa, thu hồi đất trước khi phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ gây bức xúc, khiếu kiện cho người dân vì quyền lợi chưa được đảm bảo rõ ràng, đi ngược lại nguyên tắc hoàn thành việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và bố trí tái định cư, là điều kiện tiên quyết để thu hồi đất.
Từ đó, đại biểu Hồng Hà đề nghị rút từ 75% xuống còn 50% số lượng người sử dụng đất đồng ý thu hồi đất và có phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự kiến đã được lấy ý kiến công khai, trừ trường hợp Chính phủ quyết định thu hồi đất theo đề nghị của UBND cấp tỉnh.
Bổ sung Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với các trường hợp sau đây:
a) Thực hiện dự án khu thương mại tự do, dự án trung tâm tài chính quốc tế.
b) Trường hợp sử dụng đất để thực hiện dự án thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất đã hết thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận hoặc hết thời gian gia hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận mà đã thỏa thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất thì HĐND cấp tỉnh xem xét, thông qua việc thu hồi phần diện tích đất còn lại để giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư...
(Trích Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai).






























