Cựu phó chủ tịch phường mong tòa phúc thẩm xem xét điều gì?
Bản án sơ thẩm số 584/2024/HS-ST (Bản án 584) ngày 13/12/2024 của TAND TPHCM xử phạt 49 năm tù cho 8 bị cáo. Có 6/8 bị cáo từng là cán bộ, cùng lãnh án về tội 'vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước (TSNN) gây thất thoát, lãng phí' theo Điều 219 BLHS. Trong đó, nguyên Phó Chủ tịch (PCT) P5QTB Nguyễn Thanh Lâm bị xử mức án cao nhất về tội danh này nên có đơn kháng cáo và kêu cứu, đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét toàn diện vụ án, ra phán quyết công tâm, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm…
Từ cấp dưới bày chiêu "úm ba la"…
Bản án 584 của TAND TPHCM tuyên phạt Phạm Thái Học (SN 1967, ngụ P5QTB) 12 năm 6 tháng tù và Võ Trung Dũng (SN 1981, ngụ P.Tây Thạnh, Q.Tân Phú) 12 năm tù về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 BLHS. Học và Dũng (nguyên Công chức địa chính - xây dựng P5QTB) là 2 nhân vật "chính" trong việc "hô biến" nhà, đất địa chỉ 318/82 (số mới 202/71) Phạm Văn Hai, P5QTB (gọi tắt "nhà đất 318/82") từ của công sang "của ông".
Thật trùng hợp, 2 bị cáo chủ mưu lãnh 24,5 năm tù theo Điều 174 BLHS; 6 bị cáo là cán bộ cũng "chia nhau" 24,5 năm tù theo Điều 219 BLHS! Trong đó, nguyên PCT Nguyễn Thanh Lâm (SN 1979) nhận mức án 6 năm tù. Tiếp đến là Tống Sơn Vũ (SN 1972) - Tổ phó Tổ đăng ký và cấp giấy chứng nhận (GCN) thuộc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai QTB (Chi nhánh VPĐKĐĐ) lãnh 4 năm 6 tháng tù. Hai bị cáo Trần Anh Vũ (SN 1985) - nhân viên Chi nhánh VPĐKĐĐ và Phạm Thị An Nương (SN 1977) - chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường (TNMT) QTB, mỗi người lãnh 4 năm tù. Hai bị cáo Trần Văn Tâm (SN 1974) - nguyên Trưởng phòng TNMT QTB và Nguyễn Văn Thuyết (SN 1965) - nguyên Giám đốc Chi nhánh VPĐKĐĐ, mỗi người lãnh 3 năm tù.
Bản án 584 xác định: nhà đất số 318/82 thuộc sở hữu Nhà nước theo Quyết định (QĐ) số 47206/QĐ-UBND ngày 25/10/1994 UBND TPHCM. UBND QTB được giao quản lý đến ngày 06/6/2013 thì chuyển cho Sở Xây dựng. Về khai thác, vận hành: Lúc đầu do Phòng Quản lý đô thị (QLĐT) QTB thực hiện; từ ngày 16/02/1998 đến 21/10/2022 do Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích (Công ty DVCI) QTB.

Ths - LS Nguyễn Thị Hà Đông
Dù nhà đất 318/82 thuộc sở hữu Nhà nước nhưng năm 2017, Học lại mua tài sản này từ chủ cũ đang sống tại Mỹ với giá 1,135 tỷ đồng (tương đương 50.000USD).
Mua xong, Học cùng Võ Trung Dũng bàn bạc thực hiện hành vi gian dối, sử dụng tài liệu giả mạo để được cấp GCN quyền sử dụng đất (QSDĐ). Sau khi giúp Học làm "giấy tái xác nhận", Dũng thay Học liên hệ, thực hiện trích lục hồ sơ (HS) kê khai nhà đất năm 1999 tại Chi nhánh VPĐKĐĐ vào ngày 23/3/2018; thực hiện đo vẽ nhà đất ngày 15/4/2018 và kiểm tra nội nghiệp bản vẽ ngày 22/5/2018.
Ngày 24/5/2018, Học đến trụ sở UBND P5 nộp HS đề nghị cấp GCNQSDĐ. Ngay hôm sau, Dũng tham mưu cho PCT Lâm ký thông báo và thực hiện niêm yết, trong đó có nội dung "ông Học mua giấy tay nhà đất 318/82 năm 2000". Chưa hết thời gian niêm yết, Dũng đã tham mưu cho ông Lâm ký văn bản ngày 05/6/2018 xác nhận thời điểm, nguồn gốc sử dụng nhà, đất không đúng sự thật.
Sau khi gạt được sếp ký xác nhận, Dũng tổ chức lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc nhà đất 318/82 vào ngày 06/6/2018 để hoàn tất bộ HS.
… Đến cấp trên "đốt giai đoạn"
Nhận bộ HS từ Dũng ngày 07/6/2018, Học mang ngay đến UBND QTB (bộ phận một cửa) nộp. HS được thụ lý, giải quyết theo "Quy trình QT01/ĐĐ" của UBND QTB, thể hiện trên "phiếu theo dõi HS" (phiếu ISO) mã số 14842, gồm 20 khâu, nêu rõ trách nhiệm thực hiện của từng đơn vị, cá nhân. Cụ thể: Khâu 1 và 2 thuộc Chi nhánh VPĐKĐĐ. Trong đó, khâu 1 tiếp nhận HS do NV Phan Thanh Lĩnh thực hiện. Khâu 2 do NV Lê Thị Hiếu Hạnh thực hiện gồm lập danh sách, tách HS chuyển UBND phường; lục hồ sơ lưu; đối chiếu danh sách ngăn chặn, thế chấp; phân HS cho nhân viên thụ lý.
Tiếp theo là khâu 3 "kiểm tra, xác nhận HS" và khâu 4 "niêm yết công khai kết quả kiểm tra và nội dung xác nhận HS" thuộc UBND P5. Tuy nhiên, cả 2 khâu này không thực hiện do HS không chuyển về phường mà giữ tại Chi nhánh VPĐKĐĐ để tiếp tục các khâu 5 - 11 do Trần Anh Vũ và Tống Sơn Vũ thực hiện. Ngày 14/8/2018, toàn bộ HS kèm tờ trình số 14842-18 ngày 10/8/2018 do Anh Vũ soạn thảo, Sơn Vũ "ký nháy", được chuyển cho Giám đốc Chi nhánh VPĐKĐĐ. Kiểm tra hồ sơ, Giám đốc Thuyết đã ký duyệt tờ trình, xác định đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ cho Học.

Nhà đất 318/82 (số mới 202/71) Phạm Văn Hai, P5QTB
Ngày 16/8/2018, HS được chuyển đến Phòng TNMT QTB để tiến hành khâu 12 "kiểm tra HS và kết quả thẩm định" do Phạm Thị An Nương thực hiện. Tiếp nhận HS có sự khác biệt về diện tích nhà, đất, quy mô, kết cấu, số nhà; sử dụng các giấy tờ, tài liệu không đủ thành phần, điều kiện..., nhưng Nương không yêu cầu Chi nhánh VPĐKĐĐ QTB xác minh, kiểm tra làm rõ mà đồng ý với nội dung tờ trình 14842-18 rồi ký nháy để Trưởng phòng TNMT thực hiện khâu 13.
Tiếp nhận HS, ông Tâm không chỉ đạo Nương xác minh, kiểm tra làm rõ sự khác biệt mà ký duyệt vào Tờ trình 14842-18 và ký nháy bản gốc GCN QSDĐ. HS được chuyển đến UBND QTB để chuyên viên thực hiện khâu 14 "kiểm tra hồ sơ” rồi trình lãnh đạo thực hiện khâu 15 "ký duyệt GCN". Tiếp nhận HS ngày 18/8/2018, PCT UBND QTB Châu Minh Hiếu đã ký cấp GCNQSDĐ số CM 305848 (số vào sổ cấp CH01337) ngày 20/8/2018 cho Phạm Thái Học. Sau khi được cấp GCN, Học xin giấy phép ngày 20/9/2018 xây căn nhà 1 trệt 3 lầu rồi thế chấp ngân hàng để vay 4,7 tỷ đồng.
Bản án quy kết: Học và Dũng đã thực hiện nhiều hành vi gian dối để chiếm đoạt nhà đất 318/82 là TSNN. Quá trình giải quyết HS, dù có điều kiện để xác minh, làm rõ nhà đất 318/82 thuộc sở hữu Nhà nước nhưng Lâm, Anh Vũ, Sơn Vũ, Thuyết, Nương và Tâm đã cố ý không thực hiện nhiệm vụ dẫn đến xác định sai nguồn gốc đất, hình thành nhà ở, rồi tham mưu cho UBND QTB cấp GCN cho Học không đúng quy định pháp luật, gây thiệt hại TSNN.
Theo kết luận định giá, tại thời điểm tháng 8/2018, nhà đất 318/82 có giá trị 8,913 tỷ đồng; tại thời điểm khởi tố vụ án, tài sản này trị giá hơn 14,4 tỷ đồng. Các bị cáo đã nộp khắc phục hậu quả hơn 10 tỷ đồng. Tuy không bị xử lý trong vụ án này nhưng ông Châu Minh Hiếu tự nguyện nộp 20 triệu đồng, bà Nguyễn Thị Diệu Linh nộp 30 triệu đồng để giúp các bị cáo, góp phần giảm thiểu thiệt hại TSNN.
Chủ thể chính quản lý tài sản?
Nêu rõ trong đơn và trình bày với PV, ông Nguyễn Thanh Lâm thừa nhận trách nhiệm của mình khi ký các văn bản liên quan đến nhà đất 318/82. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, ông đã thành khẩn khai báo cũng như nộp 30 triệu đồng khắc phục hậu quả.
Ông Lâm chứng minh việc ký các văn bản không phải lỗi cố ý mà vì quá tin tưởng vào cấp dưới là ông Dũng - một cán bộ chuyên trách, có nghiệp vụ lâu năm. Hơn nữa, trong HS có bản vẽ hiện trạng nhà đất đã được Phó Giám đốc Chi nhánh VPĐKĐĐ QTB Võ Thị Cẩm Xuân ký duyệt nội nghiệp ngày 22/5/2018, xác định ông Học là chủ nhà và không có tờ khai năm 1999 (thực tế là có).

Các bị cáo tại phiên sơ thẩm
Cựu PCT phường tâm tư: "Tôi không phải là chủ thể được Nhà nước giao quyền quản lý, sử dụng nhà đất 318/12. Tôi không được bàn giao nên không biết và cũng không nhận được bất kỳ thông tin nào về nhà đất này là TSNN. Tôi không chối bỏ trách nhiệm nhưng rõ ràng đây không phải là lỗi cố ý trong quản lý, sử dụng sai TSNN. Tôi đã trúng "bẫy lừa", trở thành nạn nhân của ông Dũng. Tòa sơ thẩm kết án Dũng tội "lừa đảo, chiếm đoạt tài sản", vậy bị cáo Dũng đã lừa ai? Tình tiết quan trọng này chưa được HĐXX xem xét, làm rõ. Do đó, tôi rất mong HĐXX TAND Cấp cao tại TPHCM sẽ xem xét toàn diện vụ án tại phiên phúc thẩm ngày 11/6 tới đây".
Theo dõi vụ án, Thạc sĩ - Luật sư Nguyễn Thị Hà Đông - Công ty Luật Saigon Shield, nêu ý kiến: Bản án sơ thẩm 584 lộ ra 3 vấn đề cần được làm rõ ở cấp phúc thẩm. Thứ nhất, về xác định tội danh: Bị cáo Dũng là công chức, trực tiếp thực hiện hành vi giả mạo hồ sơ và lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản Nhà nước nhưng quy kết tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" là chưa đúng tội danh đối với người có chức vụ. Trong vụ án này, người bị Dũng "qua mặt, lừa đảo" chính là bị cáo Lâm, nhưng tài sản bị chiếm đoạt lại là TSNN nên không có mối quan hệ nhân quả của hành vi lừa đảo và hậu quả.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 2, Điều 11 Luật Quản lý, Sử dụng tài sản công, trường hợp phải bị xử lý vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công thì trách nhiệm thuộc về "người đứng đầu" cơ quan, tổ chức. Trong khi với chức danh PCT UBND phường, bị cáo Lâm không phải là "người đứng đầu". Hơn nữa, theo quy định tại khoản 4, Điều 19 Luật Quản lý, Sử dụng tài sản công, chỉ có cơ quan chuyên môn thuộc cấp tỉnh, cấp quận huyện trở lên mới được giao quyền quản lý nhà nước đối với tài sản công. Việc kết tội PCT "cấp phường" theo Điều 219 BLHS với mức án cao nhất trong nhóm 6 bị cáo là chưa thuyết phục.
Thứ ba, HS thể hiện Nhà nước đã giao quyền quản lý, sử dụng nhà đất 318/12 cho các cơ quan, đơn vị gồm Sở Xây dựng TPHCM, UBND QTB, Phòng Quản lý đô thị QTB, Công ty DVCI QTB. Trong danh sách "tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức" được UBND P5QTB lập ngày 16/7/2008 gồm có 33 tài sản, nhưng không có nhà đất 318/82. Kiểm tra danh sách các tài sản ngăn chặn trên phần mềm do UBND QTB tạo lập từ năm 2007 và phần mềm do VPĐKĐĐ TPHCM từ năm 2014 cũng không hiển thị nhà đất 318/12 bị ngăn chặn.
Điều này cho thấy các đơn vị, tổ chức được Nhà nước giao quyền quản lý, sử dụng nhà đất 318/82 đã buông lỏng quản lý làm thất thoát TSNN nhưng không được làm rõ, xử lý theo Điều 219 BLHS. Trong khi những đơn vị, cá nhân khác không được giao quyền quản lý, sử dụng và khai thác nhà đất tài sản này, cụ thể như PCT Lâm lại bị kết tội là không đúng chủ thể theo Điều 219 BLHS...