Cuộc chiến pháp lý Trump-Harvard liên quan tuyển sinh quốc tế
Căng thẳng giữa ĐH Harvard và chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump tiếp tục tăng cao, khi bất đồng giữa hai bên chính thức bước vào vòng xoáy pháp lý liên quan việc tuyển sinh quốc tế.
Ngày 23-5, ĐH Harvard chính thức đệ đơn kiện lên Tòa án Liên bang tại Boston (bang Massachusetts) nhằm phản đối việc chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump ra quyết định thu hồi giấy phép SEVP của Harvard. SEVP là chương trình cho phép các cơ sở giáo dục tại Mỹ tuyển sinh quốc tế.
Sau đó cùng ngày, Thẩm phán liên bang Allison Burroughs đã ra quyết định khẩn cấp, tạm thời chặn lệnh cấm tuyển sinh quốc tế mà chính quyền ông Trump áp dụng với Harvard. Quyết định này có hiệu lực trong vòng một tuần, trừ khi tòa án ban hành phán quyết sơ bộ nhằm kéo dài hiệu lực cho đến khi vụ kiện được giải quyết, theo đài CNN.
Nhiều tu chính án liên quan
Đơn kiện của Harvard dài 72 trang, liệt kê nhiều cơ sở pháp lý nhằm chứng minh hành vi của chính quyền Tổng thống Trump là tùy tiện, trái hiến pháp và vi phạm thủ tục hành chính liên bang.
Trọng tâm đơn kiện dựa trên bốn nền tảng pháp lý: Tu chính án Thứ nhất, Tu chính án Thứ 5, Tu chính án Thứ 14 của Hiến pháp Mỹ, Đạo luật Thủ tục Hành chính (Administrative Procedure Act - APA).

Một góc ĐH Harvard (bang Massachusetts, Mỹ). Ảnh: AFP
Harvard cáo buộc chính quyền ông Trump đã vi phạm nghiêm trọng Tu chính án Thứ nhất - điều khoản bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do học thuật và tự do hội họp. Theo Harvard, việc tước giấy phép SEVP là hành vi mang tính trừng phạt chính trị, can thiệp vào quyền tự do học thuật được Hiến pháp bảo vệ - quyền mà Harvard đã thực hiện suốt hơn 70 năm qua trong việc tiếp nhận và đào tạo sinh viên quốc tế, theo tờ Newsweek.
Bên cạnh đó, đơn kiện cáo buộc Bộ An ninh Nội địa (DHS) đã có hành vi vi phạm Tu chính án Thứ 5 và Tu chính án Thứ 14. Harvard chỉ trích việc DHS bất ngờ yêu cầu trường cung cấp thông tin chi tiết về từng sinh viên quốc tế chỉ trong vòng 10 ngày, sau đó tuyên bố phản hồi từ trường là “không đủ” mà không đưa ra lời giải thích nào, rồi thu hồi giấy phép SEVP.
Hai tu chính án này đều quy định về quyền được xét xử công bằng (due process), cấm chính quyền tước đoạt quyền tự do hoặc tài sản của cá nhân và tổ chức mà không thông qua quy trình pháp lý minh bạch, hợp lý và công bằng.
Đặc biệt, Harvard nhấn mạnh rằng quyết định từ phía DHS đã vi phạm nghiêm trọng Đạo luật Thủ tục Hành chính (APA), một đạo luật liên bang năm 1946. Đạo luật này yêu cầu các cơ quan hành chính phải công bố rõ ràng căn cứ pháp lý, cho phép các bên liên quan có quyền phản hồi, tuân thủ quy trình rõ ràng khi ban hành hoặc thay đổi các chính sách ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân và tổ chức.
Theo trang findlaw.com, chính quyền ông Trump không đưa ra Thông báo Dự định Thu hồi (Notice of Intent to Withdraw – NOIW) chứng nhận SEVP, cũng như không tạo cơ hội để Harvard phản hồi trước khi quyết định có hiệu lực. Việc DHS không thông báo đầy đủ, không cung cấp bằng chứng và không tạo điều kiện để Harvard phản hồi đã vi phạm toàn diện các yêu cầu tối thiểu về minh bạch, công bằng và hợp lý theo quy định của APA.
Tính hợp pháp cuối cùng sẽ do tòa án phán quyết và kết quả có thể ảnh hưởng sâu rộng đến quan hệ giữa chính phủ liên bang và các trường đại học trong tương lai. Thẩm phán Burroughs đã lên lịch tổ chức phiên điều trần vụ kiện giữa chính quyền ông Trump và Harvard tại Boston vào ngày 29-5 để xem xét khả năng ra phán quyết sơ bộ.
Giáo sư Eric Freedman thuộc Trường Luật Hofstra đánh giá vụ kiện của Harvard là "có cơ sở pháp lý mạnh mẽ và mang lại lợi ích công". Theo ông, việc chính quyền ban hành chính sách thì dễ, nhưng để bảo vệ tính hợp pháp của quyết định đó trước tòa lại là chuyện hoàn toàn khác. Giáo sư Stephen Yale-Loehr chuyên mảng luật nhập cư tại ĐH Cornell tin rằng Harvard có khả năng thắng kiện cao trong vụ việc này.
Ai thực sự có quyền trong giáo dục đại học Mỹ?
Tại Mỹ, hệ thống giáo dục được quản lý theo mô hình phân quyền. Trong đó chính quyền tiểu bang nắm vai trò chủ đạo, còn chính quyền liên bang giữ vai trò hỗ trợ và điều phối trên toàn quốc.
Ngay từ khi ra đời, Tu chính án Thứ 10 của Hiến pháp Mỹ đã xác định giáo dục là trách nhiệm của các bang. “Những quyền lực không được Hiến pháp trao cho Liên bang và không ngăn cấm các bang thực hiện, thì thuộc về các bang tương ứng hoặc thuộc về nhân dân” - Tu chính án Thứ 10 nêu rõ.
Điều này đồng nghĩa với việc mỗi tiểu bang có quyền thiết lập chương trình học, quy định phương pháp giảng dạy, lựa chọn sách giáo khoa, quyết định ngân sách cho giáo dục và đặt ra tiêu chuẩn cấp bằng cho giáo viên, theo trang findlaw.com.

Tổng thống Mỹ Donald Trump. Ảnh: GETTY IMAGES
Các bang cũng xây dựng yêu cầu tốt nghiệp và có thể phân cấp thêm cho chính quyền địa phương để thực hiện việc bổ sung môn học hay hoạt động giáo dục ngoài chương trình khung. Trong một số trường hợp, các bang triển khai chính sách cấp phiếu học (voucher) để học sinh sử dụng ngân sách công theo học tại trường tư, chính sách này gây tranh cãi vì liên quan sự can thiệp của cả ngân sách bang và liên bang.
Chính quyền liên bang không có thẩm quyền trực tiếp quản lý hệ thống giáo dục song có ảnh hưởng đáng kể thông qua việc ban hành các đạo luật, tài trợ tài chính, triển khai các chương trình giáo dục và ban hành khuyến nghị chính sách.
Bộ Giáo dục Mỹ và các cơ quan liên bang như Quỹ Khoa học Quốc gia có vai trò đưa ra chiến lược giảng dạy, hỗ trợ nghiên cứu và đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục cho các nhóm yếu thế. Tài trợ từ liên bang thường gắn liền với các điều kiện cụ thể, buộc các bang và học khu phải tuân thủ nếu muốn nhận hỗ trợ.
Tòa án Tối cao Mỹ đóng vai trò then chốt trong việc định hình chính sách giáo dục thông qua những phán quyết có ảnh hưởng sâu rộng.
Có thể hiểu thêm từ tiền lệ Oliver Brown kiện Hội đồng giáo dục Topeka, bang Kansas (1954), sau khi con gái ông là Linda Brown bị từ chối nhập học ở trường Topeka dành cho học sinh da trắng. Tòa tối cao phán quyết rằng việc phân biệt chủng tộc trong trường học là vi hiến, chấm dứt hợp pháp hóa chế độ “tách biệt nhưng bình đẳng” từng tồn tại. Ngược lại, trong vụ kiện giữa San Antonio ISD và Rodriguez (1973), tòa lại cho rằng giáo dục không phải là quyền cơ bản theo Hiến pháp, việc phân bổ ngân sách trường học là quyền của từng bang, dù điều đó dẫn đến sự chênh lệch giữa các khu vực giàu nghèo.
Ngoài ra, Tòa án cũng nhiều lần phải cân bằng giữa quyền cá nhân và lợi ích công trong giáo dục, đặc biệt trong các vụ kiện liên quan đến chính sách tuyển sinh (affirmative action) trong tuyển sinh đại học.
Ví dụ như vụ Grutter kiện Bollinger (2003), Tòa từng cho phép xem xét yếu tố chủng tộc để thúc đẩy sự đa dạng. Tuy nhiên, trong các vụ Students for Fair Admissions kiện Harvard và ĐH North Carolina (2023), Tòa đã bác bỏ việc sử dụng chủng tộc làm tiêu chí tuyển sinh, khép lại một giai đoạn dài của chính sách này trong giáo dục đại học Mỹ (đương nhiên lật đổ hoàn toàn phán quyết Grutter kiện Bollinger trước đó).
Giới quan sát cho rằng phán quyết cuối cùng trong vụ kiện Trump-Harvard lần này sẽ trở thành án lệ quan trọng, định hình lại giới hạn pháp lý trong mối quan hệ giữa chính phủ liên bang và các cơ sở giáo dục đại học ở xứ sở cờ hoa.
Mỹ tạm dừng tiếp nhận phỏng vấn visa du học, khả năng bỏ chương trình OPT
Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã chỉ đạo các phái bộ Mỹ ở nước ngoài tạm dừng việc tiếp nhận và đặt lịch phỏng vấn mới với người xin visa du học và trao đổi sinh viên, hãng Reuters ngày 27-5 dẫn một bức điện nội bộ.
Theo bức điện, Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio cho biết Bộ Ngoại giao Mỹ có kế hoạch ban hành hướng dẫn cập nhật về việc rà soát mạng xã hội của các ứng viên xin visa du học và trao đổi sinh viên, đồng thời khuyến cáo các bộ phận lãnh sự tạm dừng việc xếp lịch hẹn cấp loại visa này.
Trong bức điện, ông Rubio nói rằng các cuộc hẹn đã được lên lịch có thể tiến hành theo các hướng dẫn hiện tại, nhưng các lịch hẹn còn trống thì nên được gỡ bỏ.
Bức điện cũng khuyến cáo các bộ phận lãnh sự tiếp tục tập trung vào các dịch vụ dành cho công dân Mỹ, visa định cư và ngăn chặn hành vi gian lận trong quá trình cấp visa.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Tammy Bruce từ chối bình luận về các thông tin liên quan đến bức điện, nhưng cho biết Mỹ sẽ sử dụng “mọi công cụ” để kiểm tra người muốn nhập cảnh vào nước này.
Bên cạnh đó, điều trần trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ ngày 21-5, ông Joseph Edlow - ứng viên được ông Trump đề cử cho vị trí Giám đốc Cơ quan Di trú và Nhập tịch Mỹ (USCIS) - cho biết ông có kế hoạch dừng chương trình thực tập OPT vốn cho phép sinh viên quốc tế ở lại làm việc tại Mỹ sau khi tốt nghiệp.
Hiện nay, sinh viên quốc tế được phép làm việc tại Mỹ trong vòng 12-36 tháng (tùy ngành nghề) trước hoặc sau khi hoàn tất chương trình học nhờ chương trình thực tập OPT.