Công ước Hà Nội - công cụ pháp lý toàn cầu thiết thực nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm mạng

Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an khẳng định, Công ước Hà Nội không chỉ là văn kiện mang tính đối ngoại hay biểu tượng pháp lý, mà thực sự là công cụ thiết thực, hỗ trợ lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm mạng trong thời đại số.

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an. (Ảnh: A05)

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an. (Ảnh: A05)

Nhân dịp Việt Nam đăng cai Lễ mở ký Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội), phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với Thượng tá Triệu Mạnh Tùng, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05), Bộ Công an, về thực trạng tội phạm mạng và ý nghĩa của Công ước đối với Việt Nam.

Phóng viên: Thưa đồng chí, tội phạm mạng tại Việt Nam hiện nay đang có những xu hướng mới nào, đặc biệt là các loại hình gây thiệt hại nghiêm trọng nhất?

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng: Tội phạm mạng hiện nay đã vượt xa khái niệm “tin tặc đơn lẻ”. Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển mạnh của các tổ chức tội phạm mạng xuyên quốc gia, hoạt động với cấu trúc chuyên nghiệp, có đầu tư công nghệ, có phân công nhiệm vụ, và đặc biệt là không bị giới hạn bởi biên giới.

Trong vòng 5 năm qua, tội phạm sử dụng công nghệ cao tăng trung bình hơn 20% mỗi năm, với những xu hướng mới như lừa đảo xuyên biên giới qua mạng xã hội, chiếm quyền điều khiển tài khoản ngân hàng, tấn công ransomware vào các cơ quan trọng yếu và doanh nghiệp.

 Công ước Hà Nội được xem là công cụ thiết thực, hỗ trợ lực lượng thực thi pháp luật nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm mạng. (Ảnh chụp màn hình)

Công ước Hà Nội được xem là công cụ thiết thực, hỗ trợ lực lượng thực thi pháp luật nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm mạng. (Ảnh chụp màn hình)

Ở khu vực châu Á, nguy cơ lớn nhất là việc nhiều đường dây lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, tấn công mạng, đánh cắp dữ liệu cá nhân và lợi dụng mạng xã hội để tán phát tin giả, thông tin xấu độc.

Các đối tượng được điều hành từ nước ngoài, nhưng gây thiệt hại trực tiếp cho người dân và doanh nghiệp trong nước. Việt Nam không nằm ngoài làn sóng này. Chúng ta xử lý rất nhiều vụ việc mà đối tượng không ở trong nước, còn dữ liệu, bằng chứng thì rải rác khắp các máy chủ quốc tế. Đây là rào cản lớn nhất khi muốn điều tra và xử lý dứt điểm.

Trong vòng 5 năm qua, tội phạm sử dụng công nghệ cao tăng trung bình hơn 20% mỗi năm, với những xu hướng mới như lừa đảo xuyên biên giới qua mạng xã hội, chiếm quyền điều khiển tài khoản ngân hàng, tấn công ransomware vào các cơ quan trọng yếu và doanh nghiệp.

Phóng viên: Trước thực tế đó, Việt Nam đã áp dụng những biện pháp gì để phòng, chống tội phạm mạng?

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng: Việt Nam đang nỗ lực trong triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, nhất là phát hiện, ngăn chặn và xử lý hiệu quả hơn tội phạm mạng, bảo vệ an ninh cá nhân, xây dựng niềm tin số và một môi trường mạng an toàn cho người dân, doanh nghiệp.

Trong đó, tập trung hoàn thiện các văn bản pháp luật (Luật An ninh mạng, các nghị định…); xây dựng lực lượng chuyên trách chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; nâng cao nhận thức cộng đồng và tăng cường hợp tác quốc tế.

Phóng viên: Thực tiễn hiện nay, khó khăn lớn nhất của lực lượng chức năng khi điều tra tội phạm mạng là gì, và Công ước Hà Nội sẽ hỗ trợ giải quyết ra sao?

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng: Có thể thấy, khó khăn lớn nhất là tính ẩn danh, xuyên biên giới của tội phạm mạng kết hợp với khoảng trống pháp lý và hạn chế về công nghệ, nhất là các chứng cứ điện tử phục vụ công tác điều tra.

Công ước Hà Nội ra đời quy định một khuôn khổ pháp lý toàn diện, bao quát nhiều lĩnh vực then chốt. Trước hết, Công ước đưa ra các chuẩn mực quốc tế về hình sự hóa hành vi phạm tội liên quan mạng máy tính và hệ thống thông tin, tạo sự thống nhất về pháp luật giữa các quốc gia.

Tiếp đó, Công ước thiết lập cơ chế hợp tác quốc tế chặt chẽ trong điều tra, dẫn độ, tương trợ tư pháp và chia sẻ thông tin.

Công ước Hà Nội ra đời quy định một khuôn khổ pháp lý toàn diện, bao quát nhiều lĩnh vực then chốt.

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng, Phó Cục trưởng A05, Bộ Công an

Bên cạnh đó, Công ước cũng nhấn mạnh yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực cho các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhằm thu hẹp khoảng cách về khả năng ứng phó.

Một nội dung trọng tâm khác là cơ chế thu thập, bảo quản và chia sẻ chứng cứ điện tử, vốn có vai trò thiết yếu trong xử lý tội phạm xuyên biên giới. Đồng thời, Công ước khẳng định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo đảm cân bằng giữa yêu cầu an ninh và các chuẩn mực pháp quyền quốc tế.

Phóng viên: Trong bối cảnh tội phạm ngày càng lợi dụng công nghệ mới như AI, deepfake…, ông đánh giá thế nào về vai trò của các công cụ công nghệ hiện đại trong hỗ trợ điều tra, truy vết và phòng, chống tội phạm mạng? Công ước có cơ chế nào giúp các quốc gia theo kịp sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là AI, deepfake và các công cụ lừa đảo trực tuyến?

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng: Trong kỷ nguyên số, sự xuất hiện của AI, deepfake, các công cụ tạo sinh và mã độc tàng hình đã làm thay đổi sâu sắc cách thức tội phạm mạng hoạt động. Các đối tượng có thể giả mạo hình ảnh, giọng nói, tạo dựng danh tính ảo hoặc phát tán thông tin sai lệch với quy mô lớn, tốc độ cao, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong quá trình phát hiện và xử lý.

Để đối phó, việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào điều tra và phòng ngừa là yêu cầu bắt buộc. Bộ Công an đang nghiên cứu triển khai đồng bộ các giải pháp như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, điều tra số, giám sát hành vi bất thường trên hệ thống mạng, nhằm nâng cao hiệu quả truy vết và xử lý hành vi phạm tội. Công ước Hà Nội được thiết kế phù hợp với bối cảnh này.

Bên cạnh việc liệt kê các loại tội phạm cụ thể, Công ước áp dụng phương pháp tiếp cận linh hoạt dựa trên bản chất hành vi, tạo điều kiện để các quốc gia bổ sung kịp thời các loại tội phạm công nghệ mới như lạm dụng AI, deepfake, lừa đảo qua chatbot, công cụ giả mạo nhận diện…

Đặc biệt, Công ước đặt ra nghĩa vụ rõ ràng cho các quốc gia trong việc yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ - đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ, viễn thông, mạng xã hội - phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng.

 Thượng tá Triệu Mạnh Tùng, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an. (Ảnh: A05)

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an. (Ảnh: A05)

Cụ thể, các doanh nghiệp có thể được yêu cầu lưu trữ dữ liệu, cung cấp thông tin, hỗ trợ truy xuất kỹ thuật, thực hiện phong tỏa hoặc gỡ bỏ nội dung khi phục vụ hoạt động điều tra hình sự. Điều này giúp khắc phục tình trạng thiếu hợp tác, chậm trễ hoặc từ chối cung cấp dữ liệu trong các vụ án liên quan đến không gian mạng.

Ngoài ra, cơ chế đầu mối liên lạc 24/7 giữa các quốc gia cũng được quy định chặt chẽ, giúp lực lượng chuyên trách có thể phối hợp xử lý nhanh chóng các vụ việc có yếu tố xuyên biên giới, đặc biệt khi tội phạm hoạt động qua nhiều quốc gia hoặc sử dụng máy chủ đặt ở nước ngoài.

Kỳ vọng từ Công ước Hà Nội. (Video: Báo Nhân Dân)

Phóng viên: Sau khi Công ước Hà Nội được thông qua, đâu là những nội dung trọng tâm Việt Nam cần sớm triển khai trong công tác điều tra, xử lý tội phạm mạng?

Thượng tá Triệu Mạnh Tùng: Việt Nam sẽ tập trung vào 3 nội dung hỗ trợ trực tiếp, rất thiết thực cho công tác điều tra, xử lý tội phạm mạng.

Thứ nhất là các quy định rõ ràng, thống nhất về hành vi cấu thành tội phạm mạng. Công ước đưa ra danh mục các hành vi bắt buộc phải hình sự hóa, thí dụ như truy cập trái phép, can thiệp dữ liệu, tấn công hạ tầng mạng, xâm phạm hệ thống thông tin trọng yếu... Điều này giúp các quốc gia, trong đó có Việt Nam, có cơ sở pháp lý đồng bộ để xử lý tội phạm mạng, giảm đáng kể khoảng trống pháp luật.

Thứ hai là nghĩa vụ hợp tác quốc tế về dẫn độ, hỗ trợ tư pháp và chia sẻ bằng chứng điện tử. Đây là nội dung cực kỳ quan trọng, vì phần lớn các vụ án trên không gian mạng hiện nay đều có yếu tố xuyên biên giới - tội phạm ở một nơi, hạ tầng đặt nơi khác, dữ liệu thì lưu rải rác ở nhiều quốc gia.

Công ước lần đầu tiên đặt ra nghĩa vụ bắt buộc về hợp tác, bao gồm cả thiết lập đầu mối phối hợp 24/7, chia sẻ kịp thời thông tin, và sử dụng các biện pháp nhanh để bảo vệ dữ liệu điện tử có thể bị mất hoặc bị xóa. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong quá trình điều tra, truy vết dòng tiền, đóng băng và phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc tài sản ảo liên quan hành vi phạm tội.

Cuối cùng, Công ước cũng tạo điều kiện để Bộ Công an tham gia sâu hơn vào các chương trình nâng cao năng lực, tiếp cận công nghệ điều tra hiện đại, xây dựng đội ngũ điều tra viên mạng có trình độ cao và kết nối với các mạng lưới chuyên gia quốc tế, giúp tăng hiệu quả phòng ngừa và điều tra, đồng thời củng cố lòng tin của người dân và doanh nghiệp vào môi trường mạng an toàn, có pháp luật bảo vệ.

Công ước Hà Nội không chỉ là văn kiện mang tính đối ngoại hay biểu tượng pháp lý, mà thực sự là công cụ thiết thực, hỗ trợ lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm mạng trong thời đại số.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

TRUNG HƯNG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/cong-uoc-ha-noi-cong-cu-phap-ly-toan-cau-thiet-thuc-nang-cao-hieu-qua-dau-tranh-chong-toi-pham-mang-post917873.html