Công nghiệp Việt Nam năm 2024: Thành tựu và hạn chế

Với nỗ lực toàn diện từ Chính phủ, Bộ Công Thương và các doanh nghiệp trên cả nước nên trong năm 2024 ngành công nghiệp đã chính thức trở lại quỹ đạo tăng trưởng trước đại dịch Covid-19 từ quy mô sản xuất đến các ngành công nghiệp trọng điểm. Công nghiệp Việt Nam đang chính thức bước vào một thời kỳ phát triển mới.

Thời kỳ mới của công nghiệp Việt Nam

Trong năm 2024, quy mô sản xuất công nghiệp trên cả nước phục hồi nhanh, và liên tục được mở rộng trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn. Công nghiệp giữ vai trò động lực, dẫn dắt tăng trưởng chung của nền kinh tế. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (PPI)11 tháng tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước (năm 2023 tăng 0,9%), là mức tăng cao nhất trong giai đoạn từ năm 2020 đến nay). Với đà tăng trưởng như hiện nay, dự kiến cả năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp sẽ tăng trên 8%, vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch tăng 7-8%).

Chỉ số sản xuất công nghiệp bắt đầu giai đoạn tăng trưởng tốt kể từ sau đại dịch Covid-19.

Chỉ số sản xuất công nghiệp bắt đầu giai đoạn tăng trưởng tốt kể từ sau đại dịch Covid-19.

Bên cạnh đó, cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững: tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo (tiêu chí và là biểu tượng của các nước công nghiệp phát triển) tiếp tục tăng khá khi đạt khoảng 24,1%. Theo đó, công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng của toàn ngành và toàn nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao: Trong 11 tháng năm 2024, chỉ số sản suất ngành chế biến, chế tạo tăng 9,7% (cùng kỳ năm 2023 chỉ tăng 1,0%), đóng góp 8,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

Điều đáng mừng là các ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế tiếp tục phát triển như: Khai thác, chế biến dầu khí; khai thác, chế biến khoáng sản, điện, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện kim, sắt thép; xi măng và vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; cơ khí chế biến chế tạo, ô tô, xe máy... tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Một số ngành công nghiệp xuất khẩu (dệt may, da giày, điện tử…) đã cơ bản hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế. Nhiều mặt hàng công nghiệp như da giày, dệt may, điện tử có vị trí xếp hạng xuất khẩu cao so với khu vực và thế giới.

Một số ngành công nghiệp nền tảng (thép, hóa chất, cơ khí chế tạo) đã từng bước đáp ứng nhu cầu về tư liệu và năng lực sản xuất của nền kinh tế. Công nghiệp quốc phòng đã từng bước tham gia thúc đẩy phát triển nền công nghiệp quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội (nhất là trong các lĩnh vực như: Cơ khí, sản xuất vật liệu nổ công nghiệp; điện, điện tử; quang học; đóng mới, sửa chữa tàu và công trình thủy; sửa chữa máy bay, ra đa). Công nghiệp hỗ trợ, sản xuất linh kiện, cụm linh kiện dần được hình thành, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị tăng trong các ngành công nghiệp, thúc đẩy tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị.

Những tồn tại trong lĩnh vực công nghiệp

Mặc dù năm 2024 ngành Công nghiệp Việt Nam đạt những kết quả tích cực, song với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, lãnh đạo Bộ Công Thương đã chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong phát triển công nghiệp.

Petrovietnam là đơn vị tiên phong trong chuyển đổi số.

Petrovietnam là đơn vị tiên phong trong chuyển đổi số.

Trước tiên, sự phát triển công nghiệp còn còn thiếu vững chắc. Mặc dù tăng trưởng nhưng chủ yếu là công nghiệp có tính gia công, giá trị thấp. Hay nói cách khác, chúng ta mới phát triển những ngành công nghiệp và những phân khúc có giá trị gia tăng thấp.

Hạn chế thứ hai là giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị công nghiệp của cả nước. Đối chiếu sang lĩnh vực xuất khẩu sẽ thấy 74,6% giá trị xuất khẩu là từ khu vực FDI. Điều này đồng nghĩa, doanh nghiệp nội chiếm chưa được 1/3 tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp và tổng giá trị xuất khẩu của các ngành.

Tiếp đến, công nghiệp nhìn chung chưa tận dụng tốt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự dịch chuyển đầu tư từ các công ty đa quốc gia sang nước thứ ba và cũng chưa tận dụng tối đa được các hiệp định thương mại tự do.

Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, chúng ta chỉ có 24%, còn 76% là doanh nghiệp FDI, một số doanh nghiệp đã ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo nhưng nhìn chung còn ở khu vực thấp. Rõ ràng doanh nghiệp chưa tận dụng được Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chưa tận dụng được xu thế dịch chuyển, chưa thu hút được FDI.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ ra: "Thu hút FDI không chỉ đơn giản tính bằng giá trị xuất khẩu mà phải tính bằng năng lực và nội lực của doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng ra sao? Chúng ta xem trong hệ sinh thái của Samsung hay một số tập đoàn điện, điện tử của Nhật Bản và Hàn Quốc thì các doanh nghiệp của chúng ta tham gia được bao nhiêu trong phân khúc này?".

Hạn chế thứ tư, các ngành công nghiệp còn rất gian nan mới có thể tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu bởi chưa đủ sức làm chủ cuộc chơi. Hạn chế thứ năm, công nghiệp Việt Nam vẫn thiếu những ngành công nghiệp có tính nền tảng, như: Công nghiệp vật liệu, công nghiệp hỗ trợ, cơ khí, chế tạo chế biến, điện tử, hóa chất, năng lượng.

Bộ trưởng lấy ví dụ, về công nghiệp hóa chất, hóa chất cơ bản chúng ta chưa làm chủ được, hầu như phải nhập khẩu. Hay về công nghiệp vật liệu cũng tương tự. Giá trị xuất khẩu hơn 400 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu năm nay là hơn 800 tỷ USD, có thể đạt ngưỡng 800 tỷ USD nhưng xuất siêu chỉ đạt 23-24 tỷ USD.

"Điều đó chứng tỏ chúng ta đang ở một phân khúc rất mỏng. Dày hơn lại là phân khúc khác, đó là phân khúc vật liệu, công nghiệp hỗ trợ, chế tạo" - Bộ trưởng phân tích.

Tùng Dương

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/cong-nghiep-viet-nam-nam-2024-thanh-tuu-va-han-che-722663.html
Zalo