Còn nhiều điểm nghẽn trong đào tạo nhân lực công nghệ số, trí tuệ nhân tạo
Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia đã chia sẻ các giải pháp nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy sự phát triển của công nghệ số và trí tuệ nhân tạo.
Tại tọa đàm khoa học “Đào tạo nhân lực chất lượng cao về công nghệ số và trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo; Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên; Câu lạc bộ Khoa - Trường - Viện Công nghệ thông tin - Truyền thông Việt Nam (FISU Việt Nam) tổ chức vào ngày 20/06 đã diễn ra các phiên thảo luận, báo cáo tham luận, chia sẻ ý kiến từ nhiều chuyên gia, đại diện cơ sở giáo dục đại học trên cả nước.
Thúc đẩy mô hình hợp tác công tư, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo
Trình bày báo cáo tại tọa đàm, Tiến sĩ Võ Xuân Hoài - Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, Bộ Tài chính đã báo cáo tham luận về “Thúc đẩy mô hình hợp tác công tư (PPP) trong phát triển nguồn nhân lực công nghệ số, ngành công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo nhằm góp phần nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia”.
Theo Tiến sĩ Hoài, trong bối cảnh toàn cầu đang tái cấu trúc mạnh mẽ dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 và các xu hướng công nghệ mới, Việt Nam đang đứng trước một cơ hội mang tính bước ngoặt để bứt phá và tái định vị trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn 2045, Việt Nam cần chuyển mình với tư duy đổi mới, hành động quyết liệt và quyết tâm chính trị cao nhằm tận dụng tối đa cơ hội, bảo đảm không chỉ bắt kịp mà còn dẫn dắt một phần của quá trình chuyển đổi toàn cầu.
“Việt Nam có lực lượng kỹ sư đông đảo với kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực điện tử, công nghệ, … trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, các quốc gia, nền kinh tế có ngành công nghiệp bán dẫn phát triển đang có nhu cầu lớn về tuyển dụng đội ngũ kỹ sư từ nước ngoài.
Việt Nam đã và đang có mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều quốc gia có ngành công nghiệp bán dẫn phát triển và tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp bán dẫn lớn trên thế giới lựa chọn Việt Nam làm điểm đến tiếp theo. Mặc dù đang trong giai đoạn “dân số vàng” với lực lượng lao động trẻ, sáng tạo và tỷ lệ lao động trình độ cao gia tăng, Việt Nam vẫn đối mặt với khoảng cách lớn giữa cung - cầu nhân lực công nghệ.
Nguyên nhân chính nằm ở chương trình đào tạo vẫn lạc hậu, thiếu liên kết doanh nghiệp và cơ sở thực hành chuyên sâu, dẫn đến sinh viên thiếu kỹ năng thực tiễn. Chi phí đầu tư về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị công nghệ cao phục vụ cho việc đào tạo yêu cầu khoản đầu tư rất lớn từ cả phía Nhà nước, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.
“Chảy máu chất xám” diễn ra khi giảng viên và chuyên gia chọn làm việc tại doanh nghiệp lớn hoặc ra nước ngoài. Đồng thời, cơ chế hợp tác công - tư (PPP) trong đào tạo chưa đủ ưu đãi và niềm tin để thu hút đầu tư tư nhân, khiến nguồn lực tài chính, công nghệ và quản trị từ khối tư nhân chưa được khai thác hiệu quả.
Các vấn đề trên là rào cản lớn đối với tham vọng của Việt Nam muốn trở thành một trung tâm đổi mới sáng tạo, công nghệ cao và đặt ra rủi ro đáng kể cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai”, Tiến sĩ Võ Xuân Hoài nhận định.

Tiến sĩ Võ Xuân Hoài - Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, Bộ Tài chính. Ảnh: Thúy Hiền.
Để giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực công nghệ cao và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia, việc triển khai mô hình hợp tác công - tư (PPP) cần được thực hiện một cách chiến lược, tập trung vào đào tạo chất lượng và thu hút đầu tư. Trong thời gian qua, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) đã tích cực thúc đẩy hợp tác - công tư nhằm phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam.
Mô hình hợp tác công - tư được xác định là giải pháp tối ưu. PPP giúp huy động hiệu quả nguồn lực tài chính, tri thức, công nghệ và kinh nghiệm quản trị từ khu vực tư nhân, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn chế. Mô hình này không chỉ mở rộng quy mô đào tạo mà còn nâng cao chất lượng, đảm bảo tính thực tiễn và phù hợp với yêu cầu của các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành có tốc độ phát triển nhanh như công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và bán dẫn.
Ngoài ra, để hiện thực hóa tầm nhìn về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo khu vực, theo Tiến sĩ Võ Xuân Hoài, cần có sự phối hợp đồng bộ và quyết liệt từ Quốc hội và Chính phủ trong hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực bộ máy quản lý PPP, cùng với sự chủ động tham gia sâu rộng của doanh nghiệp và các tổ chức giáo dục. Đây là một hành trình dài hạn, đòi hỏi tầm nhìn chiến lược, sự kiên định và khả năng thích ứng liên tục để biến thách thức thành cơ hội, nâng tầm vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghệ thế giới.
Thu hút nhân tài là mục tiêu quan trọng và cốt lõi
Cũng tại tọa đàm, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã trình bày tham luận với chủ đề “Đào tạo và thu hút nhân tài công nghệ số và trí tuệ nhân tạo tại Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội”.
Theo đó, Giáo sư Chử Đức Trình đề cập đến việc công nghệ số và AI đang có tốc độ phát triển nhanh chóng, lan rộng đến hầu hết các lĩnh vực. Tại Việt Nam, chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030 với ba trụ cột Chính phủ số - Kinh tế số - Xã hội số đã được ban hành. Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030 được Thủ tướng phê duyệt, đặt mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN về AI.
Song thực tiễn cũng đặt ra nhiều thách thức về sự thiếu hụt nguồn nhân lực AI chất lượng cao; thiếu cơ sở dữ liệu mở, chuẩn hóa phục vụ nghiên cứu AI; cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu, đặc biệt tại các trường đại học và địa phương; nhận thức và ứng dụng công nghệ số chưa đồng đều giữa các ngành và khu vực.
“Tại Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, AI được xác định là yếu tố chiến lược trong sự nghiệp phát triển và hội nhập. Trong vài năm gần đây, nhà trường đã xây dựng được đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ chuyên sâu về AI, hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, phát triển nhiều sản phẩm AI có tính ứng dụng và chỉ số cao.
Trí tuệ nhân tạo là một trong những trụ cột trung tâm trong chiến lược đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển giao công nghệ và chỉ đạo chuyển đổi số. Toàn bộ 21 chương trình đào tạo đại học, 11 chương trình đào tạo thạc sĩ và 9 chương trình đào tạo tiến sĩ tại trường đều liên quan mật thiết tới AI. Đi liền với với nhiệm vụ này, nhà trường đã xây dựng và vận hành toàn bộ các chương trình đào tạo sau đại học để đào tạo các chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực liên quan.
Ngoài ra, về nghiên cứu khoa học, nhà trường đang có 40 sản phẩm công nghệ ứng dụng AI có tiềm năng thương mại hóa, trong đó có 12 sản phẩm đã được chuyển giao, với nhiều dự án, đề tài quốc tế về AI.
Mô hình liên kết trường - viện - doanh nghiệp - địa phương đang được triển khai rộng rãi. Hiện trường có 12 đối tác chiến lược với tổng kinh phí là 20 tỷ đồng, trong đó có 7 đối tác doanh nghiệp, với kinh phí là 14 tỷ đồng”, Giáo sư Chử Đức Trình cho hay.

Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Thúy Hiền.
Theo thầy Trình, từ bối cảnh phát triển công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trên thế giới cũng như ở trong nước và thực tiễn của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, có thể nhận diện một số bài học, kinh nghiệm được rút ra nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ số và trí tuệ nhân tạo của quốc gia.
Thứ nhất, trên tinh thần đại học số các chương trình đào tạo đặc biệt là các chương trình đào tạo liên quan đến AI, chuyển đổi số cần cập nhật đồng bộ đảm bảo chất lượng bên trong với sự tham gia của tất cả các bên liên quan. Bài học các nước phát triển hiện nay cho thấy nhiều trường triển khai các quy trình cải tiến liên tục chương trình đào tạo, cho phép cập nhật nội dung thường xuyên theo sự phát triển nhanh của công nghệ.
Các chương trình đào tạo ngành Trí tuệ nhân tạo, Khoa học dữ liệu, An ninh mạng,… được cập nhật hàng năm. Để việc này được thực thi, các trường đại học cần xây dựng chiến lược, cơ chế khả thi để thực thi đổi mới chương trình đào tạo linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của tất cả các bên và gắn đào tạo với thực tiễn.
Thứ hai, phát triển năng lực liên ngành và tư duy giải quyết vấn đề. AI không chỉ dành cho ngành công nghệ thông tin mà còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác như y tế, kinh tế, giáo dục, luật... Vì vậy, các trường đại học cần phát triển theo hướng liên ngành và tích hợp AI, kỹ năng công nghệ số vào các ngành học khác để đào tạo công dân số toàn diện, hướng tới phát triển tư duy số, đạo đức AI, kỹ năng giải quyết vấn đề thực tế.
Thứ ba, đầu tư hạ tầng, nền tảng học tập số. Nhiều quốc gia đã đầu tư rất mạnh mẽ vào phòng lab AI, nền tảng học trực tuyến, kho dữ liệu mở phục vụ giảng dạy và nghiên cứu. AI được dạy thông qua các nền tảng mô phỏng, môi trường đám mây, hệ sinh thái phần mềm thực tế. Bởi vậy, có thể thấy đào tạo AI hiệu quả đòi hỏi đầu tư công nghệ, môi trường thực hành và nền tảng học tập số phù hợp.
Thứ tư, chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên và các chính sách mới về đào tạo. Các nước tiên tiến luôn coi trọng đào tạo lại giảng viên, cập nhật kiến thức AI liên tục, tham gia nghiên cứu và hợp tác quốc tế.
Đội ngũ giảng viên là yếu tố then chốt, cần được bồi dưỡng về chuyên môn và kỹ năng công nghệ số cũng như khả năng nghiên cứu, giảng dạy, truyền tải kiến thức về công nghệ số và trí tuệ nhân tạo. Đồng thời các chính sách mới về đào tạo cũng cần được chủ động triển khai sáng tạo ở các cơ sở giáo dục đào tạo để tận dụng phát triển năng lực tiềm tàng từ người học.
Hợp tác “3 nhà” và phát triển nhân lực AI
Tham gia báo cáo tham luận tại buổi tọa đàm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Khả Tú - Phó Trưởng ban Ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trình bày về chủ đề “Hợp tác 3 nhà và phát triển nhân lực AI tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh”.
Trước sự chuyển mình mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo đang trở thành một động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới sáng tạo, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hàng đầu phía Nam, đã tiên phong triển khai mô hình hợp tác "3 Nhà" giữa Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp. Trong đó, phát triển nguồn nhân lực AI được xem là một trụ cột chiến lược nhằm phục vụ công cuộc chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt tại vùng Đông Nam Bộ.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Khả Tú - Phó Trưởng ban Ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Thúy Hiền.
Theo Phó Giáo sư Huỳnh Khả Tú, mô hình “3 Nhà” tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện nhằm tăng cường kết nối và thiết lập cơ chế phối hợp chiến lược giữa nhà trường với chính quyền địa phương và doanh nghiệp trong vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; nhằm hiện thực hóa các định hướng, nhiệm vụ trong Nghị quyết số 57-NQ/TW, gắn kết với Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/20225 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, thiết lập khung thể chế, dẫn dắt đầu tư, đảm bảo công bằng và tạo động lực chấp nhận rủi ro để thúc đẩy đổi mới; cung cấp đất đai, hạ tầng và chính sách ưu đãi về thuế, tài chính cho các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp; hỗ trợ thành lập các quỹ đầu tư đổi mới, vườn ươm công nghệ và không gian làm việc chung; đóng vai trò điều phối chiến lược phát triển vùng, đảm bảo sự đồng bộ giữa quy hoạch đô thị và định hướng khoa học và công nghệ.
Nhà trường - bao gồm các đại học và viện nghiên cứu là trung tâm sản sinh tri thức, cung cấp nguồn lực trí tuệ: giảng viên, nhà khoa học, nghiên cứu sinh; thực hiện các nghiên cứu nền tảng, đồng thời phát triển các giải pháp ứng dụng; kết nối sinh viên và dự án nghiên cứu với doanh nghiệp thông qua các chương trình đổi mới mở, thực tập và khởi nghiệp.
Doanh nghiệp giữ vị trí then chốt trong việc thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, đưa đổi mới vào thực tiễn và lan tỏa giá trị ra thị trường; tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng, đặt hàng các đề tài từ trường đại học; cung cấp môi trường thực nghiệm, dữ liệu và nền tảng triển khai công nghệ mới.
Ba bên vận hành theo nguyên tắc “cùng thiết kế - cùng triển khai - cùng chia sẻ giá trị”. Các bên cùng nhau tham gia xây dựng mục tiêu nghiên cứu, đồng thời chia sẻ lợi ích tài chính từ kết quả ứng dụng.
Ngoài ra, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang đẩy mạnh đào tạo AI không chỉ trong các chương trình đào tạo tại các đơn vị thành viên, mà còn thúc đẩy các ứng dụng AI hỗ trợ các lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu liên quan.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đang có 18 chương trình đào tạo về AI và có sử dụng AI, được phân bố trong 06 nhóm lĩnh vực (Kỹ thuật, Khoa học tự nhiên, Máy tính và Công nghệ thông tin, Toán và Thống kê, Kinh doanh và Quản lý) và được đào tạo tại các cơ sở đào tạo thành viên gồm: Trường Đại học Bách khoa, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Trường Đại học Công nghệ thông tin, Trường Đại học Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - Luật và Trường Đại học An Giang.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh kiên trì thực hiện nhiệm vụ phát triển đào tạo và ứng dụng AI theo nhiều hình thức khác nhau thông qua việc xây dựng và triển khai các đề án, dự thảo.
Vừa qua, nhà trường đã xây dựng “Chương trình nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học công nghệ tích hợp với Công nghệ chiến lược tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đạt trình độ tiên tiến ngang tầm khu vực và thế giới giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn 2045”.
Trong đó, Nhà trường xác định cụ thể đến năm 2030, đào tạo được 1.000 cử nhân, kỹ sư tài năng; 600 thạc sĩ; 300 tiến sĩ trong lĩnh vực khoa học cơ bản; 36.000 cử nhân, kỹ sư; 3.600 thạc sĩ; 600 tiến sĩ trong lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ; 100.000 giảng viên, giáo viên được bồi dưỡng nâng cao năng lực giảng dạy; 1.000.000 học sinh được trải nghiệm các hoạt động STEM. Chương trình này tạo nguồn lực cho lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng AI.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị cần có cơ chế chính sách linh hoạt và đột phá nhằm tạo thuận lợi cho việc triển khai sâu rộng và bền vững mô hình hợp tác “03 Nhà” giữa Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp.
Cụ thể, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất hình thành một Quỹ hỗ trợ phát triển trí tuệ nhân tạo quốc gia, trong đó có cơ chế ưu tiên đặt hàng các dự án nghiên cứu, ứng dụng AI xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của địa phương và doanh nghiệp, được thực hiện bởi các nhóm chuyên gia, giảng viên và sinh viên trong hệ thống đại học.
Song song đó, cần cho phép các địa phương và doanh nghiệp tham gia vào quá trình đồng thiết kế chương trình đào tạo và nghiên cứu AI thông qua các hợp đồng đặt hàng dài hạn, có cơ chế chia sẻ lợi ích rõ ràng, nhằm bảo đảm tính thực tiễn và tính bền vững của hợp tác.