Còn nét làng xưa giữa lòng đô thị?

Hà Nội đang chuyển mình theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (TP và xã, phường), với 126 đơn vị hành chính cấp xã mới. Trong hành trình này, không gian làng cổ, trong đó có giếng làng - biểu tượng của ký ức cộng đồng và văn hóa cư dân nông nghiệp, đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Thế nên, người Hà thành đương thời cứ vương vấn không thôi: còn nét làng xưa giữa lòng đô thị hiện đại?

1. Ở vùng đất Thăng Long - Hà Nội xưa, giếng làng là hình ảnh phổ biến trong không gian kiến trúc làng Việt. Không chỉ có chức năng cung cấp nước sinh hoạt, giếng còn gắn liền với đời sống tâm linh, tín ngưỡng và phong tục của người dân. Bên cạnh đình làng, chùa làng, cây đa, bến nước, giếng làng tạo thành một “trục thiêng” trong cấu trúc không gian cư trú và sinh hoạt cộng đồng.

Giếng thường được đặt ở vị trí trung tâm, gần đình hoặc chùa, được kè gạch Bát Tràng hoặc đá ong, xung quanh là bậc thang để người dân lấy nước, rửa rau, vo gạo… Ở nhiều nơi, giếng còn được coi là “mắt rồng” trong phong thủy làng quê, góp phần cân bằng âm dương, sinh khí.

Bao lần đàm đạo chuyện làng quê là bấy nhiêu lần ông bạn già - vốn người làng hoa Ngọc Hà - nằm lòng những bài giảng lịch sử cho học sinh phổ thông Hà Nội, tâm đắc mà rằng: “Giếng làng là một phần không thể thiếu trong cấu trúc văn hóa truyền thống của làng Việt nói chung, làng cổ Hà Nội nói riêng. Nó vừa mang giá trị vật chất, vừa thể hiện tính cộng đồng và sự gắn bó giữa con người với tự nhiên”.

Giếng làng cổ Đường Lâm, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng

Giếng làng cổ Đường Lâm, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng

Thì đúng, Hà Nội với đặc thù là vùng đất tụ hội - nơi tập trung hàng trăm làng cổ, từ các làng nghề như Bát Tràng, Vạn Phúc, đến các làng ven đô như Tây Tựu, Phú Thượng, Mỗ Lao…, đã từng có hàng nghìn giếng làng. Mỗi giếng làng đều ghi dấu một thời kỳ phát triển, một cộng đồng cư dân và phản ánh sự thích ứng khéo léo của con người với điều kiện tự nhiên của vùng đồng bằng sông Hồng. Chính giếng làng bình dị trong đời sống thường nhật ấy đã là đề tài tưởng như muôn thuở cho thi ca, hội họa và cả các nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa.

2. Theo thời gian, khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính (năm 2008), nhiều làng ven đô trở thành phường nội thành. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, hệ thống cấp thoát nước hiện đại thay thế, các công trình hạ tầng kỹ thuật phát triển, khiến nhiều giếng làng bị lấp bỏ hoặc… bỏ không. Thậm chí có nơi, cái giếng từng là linh hồn làng xóm, bị "chôn vùi" dưới mặt đường nhựa hoặc trở thành nơi chứa rác thải…

Ở làng Vạn Phúc (phường Hà Đông), từng có hàng chục giếng cổ nhưng đến nay chỉ còn lác đác vài chiếc. Giếng đình Vạn Phúc được phục dựng nhưng chủ yếu mang tính biểu tượng, không còn vai trò cấp nước. Tương tự, ở làng Phú Thượng (phường Phú Thượng), nơi nổi tiếng với nghề trồng đào và nếp cái hoa vàng, giếng làng nay nằm khuất trong những lối nhỏ, ít người biết đến.

Tất nhiên, giữa cơn lốc đô thị hóa, vẫn có những làng quê một mực giữ gìn giếng làng như một phần di sản sống. Làng cổ Đường Lâm (xã Đường Lâm) hiện vẫn bảo tồn được gần 100 giếng cổ, trong đó nhiều giếng vẫn được người dân sử dụng hằng ngày. Một số làng như Yên Phụ, Nghi Tàm, hay Kim Liên, Phương Liên… nằm giữa lòng đô thị, vẫn còn lưu giữ hình ảnh giếng làng trong kiến trúc cảnh quan mới, dù quy mô và chức năng đã khác trước.

Vẫn biết, đô thị hóa là xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại. Vậy nhưng, người mê mẩn phong thái làng quê vùng Đồng bằng Bắc Bộ, người tha thiết với văn hóa Hà thành chẳng ai là không ngẩn ngơ thương nhớ một thuở giếng làng…

3. Ông bạn tôi nói đúng, việc Hà Nội sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, hình thành 126 xã, phường đô thị, không chỉ là tinh giản bộ máy mà còn là bước chuyển để tái thiết đô thị trên nền tảng văn hóa bản địa. Trong bối cảnh đó, việc nhận diện và phát huy các giá trị di sản như giếng làng trở thành vấn đề cần được đặt ra. Việc quy hoạch không gian công cộng nên tính đến việc bảo tồn và tái lập những cấu trúc làng cổ, trong đó có giếng làng, như một phần của bản sắc đô thị.

Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 đã nhấn mạnh việc giữ gìn “không gian văn hóa làng trong lòng đô thị”. Điều đó đòi hỏi không chỉ bảo tồn di tích theo nghĩa vật thể, mà còn tái tạo những ký ức văn hóa, hệ thống biểu tượng mang tính cộng đồng, góp phần tạo ra tính đặc thù, bản sắc riêng cho từng xã, phường đô thị. Đơn cử, tại làng Tây Tựu giờ thành một phần của phường Tây Tựu, chính quyền và cộng đồng có thể xây dựng mô hình "công viên giếng làng" gắn với nghề trồng hoa truyền thống. Hoặc ở làng Cự Đà (xã Bình Minh), giếng làng có thể được phục dựng như một điểm nhấn du lịch làng cổ bên dòng Nhuệ Giang.

4. Chợt nhớ câu nói của một nhà nghiên cứu văn hóa: Không nên nhìn giếng làng như một di tích để ngắm, mà cần nhìn nhận nó như một phần của di sản sống - nơi gắn kết cộng đồng, kích hoạt các hoạt động văn hóa bản địa, giáo dục truyền thống và xây dựng bản sắc cho các đơn vị hành chính mới. Trong thời đại của bản đồ số và hạ tầng kỹ thuật hiện đại, giếng làng không còn chức năng cấp nước, nhưng có thể trở thành tâm điểm văn hóa, nơi tổ chức lễ hội, truyền dạy lịch sử địa phương. Nếu gắn với công nghệ thực tế ảo, bảo tàng cộng đồng, giếng làng sẽ là nơi kết nối ký ức với hiện tại.

Một số địa phương tại Hà Nội đã bắt đầu cách làm này. Ví như ở làng cổ Kim Lũ (phường Định Công) đã số hóa vị trí các giếng cổ, lập hồ sơ di sản và vận động người dân gìn giữ không gian truyền thống xung quanh giếng. Ở làng cổ Đường Lâm, chương trình “Một ngày làm người Đường Lâm” đưa du khách đến thăm, lấy nước và kể chuyện giếng làng như một phần tour văn hóa... Rõ là chỉ cần một chút chăm sóc, quan tâm như giữ gìn sạch sẽ môi trường nước mặt của giếng, tu tạo lại thành giếng và không gian xung quanh, khôi phục những giếng bị bỏ hoang… sẽ thổi được một sức sống mới vào hồn cốt cho di sản giếng làng. Rõ là giữ gìn giếng làng không chỉ là giữ gìn một công trình dân sinh, mà còn là giữ gìn nét đẹp văn hóa của mỗi làng quê.

Phải nói rằng, trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính, Hà Nội đứng trước cơ hội vàng để “tái sinh” không gian văn hóa truyền thống trong hình hài mới. Trong đó, giếng làng có thể trở thành công cụ để kể lại câu chuyện “từ làng ra phố” của người Hà Nội, để gợi nhắc về một thời “Kinh kỳ tụ hội” mà nơi nào cũng có giếng đình - cây đa - mái chùa. Khi mỗi giếng làng là một cột mốc ký ức, thì việc bảo tồn chúng chính là giữ lại chiều sâu lịch sử cho tương lai.

Hà Nội của ngày mai không chỉ là TP của công nghệ, của đại lộ, của đô thị thông minh, mà còn phải là TP của ký ức, nơi những giếng làng cũ vẫn vang vọng tiếng nước gánh xưa, trong nhịp sống rộn ràng của một đô thị văn hiến - văn minh - hiện đại.

Nhật Anh

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/con-net-lang-xua-giua-long-do-thi.791264.html
Zalo