Cõi trong veo của Hoàng Như Thủy An
HNN - Một sự kiện đáng chú ý của Huế đầu tháng 6/2025 là khai mạc triển lãm tranh sơn dầu của Hoàng Như Thủy An tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán. Hoàng Như Thủy An là bút danh khi làm thơ và họa danh khi vẽ tranh của anh Hoàng Như Bứa (sinh năm 1948), quê gốc ở Cầu Hai (Cao Đôi), Phú Lộc, Huế; hiện sống ở Đà Lạt. Điều đặc biệt là tất cả các bức tranh này đều được vẽ sau khi anh bị đột quỵ, liệt nửa người, anh phải tập vẽ bằng tay trái vốn không phải là tay thuận.

Công chúng yêu tranh Huế
Hoàng Như Thủy An là người luôn sống thật và rất hồn nhiên, đam mê và cống hiến cho nghệ thuật đến tận cùng, và rồi chính việc vẽ tranh đã cứu anh qua cơn đột quỵ. Đi qua những kiếp nạn, anh dằm mình trong cõi bình yên, trong veo. Đứng trước tác phẩm của anh, ta cảm thấy nhẹ nhõm và yêu cuộc sống nhiều hơn.
29 bức tranh, đa phần khổ nhỏ, mô tả cõi trong veo của Hoàng Như Thủy An. Đó là những tĩnh vật của cây đàn guitar, những ly, những quạt, những bình hoa và đàn cổ… Đó là những xao động bởi vũ điệu của chim, cậu bé và ngựa, thiếu nữ và chim… Nhiều khi tĩnh và động hòa vào nhau, phơi trên nền màu ngọc lục bảo như trong bức “Người đàn ông và con chó”, những đan phối ngập ngời trong “Thiếu nữ và trăng”, “Sen - Yếm - Trăng”…
Trong cõi trong veo của Hoàng Như Thủy An có nhiều bức tranh cuốn hút. Trước hết là bức “Cậu bé và ngựa 1” được in trên catalogue. Trên nền tranh màu xanh lam chuyển dần sang lục gợi cảm giác êm dịu, mộng mị, như trong một giấc mơ. Cậu bé và con ngựa đối diện nhau, gần như mũi chạm mũi, ánh mắt chạm ánh mắt, gợi lên sự kết nối sâu sắc giữa con người và thiên nhiên. Cậu bé và con ngựa đều có màu vàng ấm áp - tạo sự nổi bật và đối lập với nền xanh, như ánh sáng trong thế giới trầm lặng. Cậu bé có đôi mắt to và hàng mi cong mơ mộng, con ngựa cũng có con mắt biểu cảm rất “người”. Đôi mắt cả hai như đang nói chuyện, đang đồng cảm, thấu hiểu. Một chút gì đó ngây thơ, thuần khiết, như tình bạn đầu đời giữa đứa trẻ và con ngựa đang dâng tràn cảm xúc, là hiện thân của sự vô tư, thấu cảm nguyên sơ, con người và loài vật không còn ranh giới về giống loài mà hòa nhập trong một mối liên kết thuần khiết.
Ở bức “Cưu mang”, ngay từ bố cục, người xem đã bị cuốn hút vào khối hình tròn vàng cam nổi bật ở nửa dưới bức tranh - nơi một đứa trẻ nằm cuộn tròn trong tư thế thai nhi. Đó là biểu tượng của vũ trụ mẹ, của sự tuần hoàn và tái sinh. Điều đáng chú ý là người mẹ không có đường viền rõ ràng - hình thể hòa vào nền tranh, như thể người mẹ chính là một phần của ánh sáng, của không gian bao quanh. Mẹ không chỉ “mang” mà còn “là” môi trường của sự sống, như đất, như trời, như đại dương bao dung. Không gian tranh là một trường ánh sáng liên tục lan tỏa - không phân biệt giữa trong và ngoài, giữa mẹ và con, giữa thân thể và tinh thần. Tông màu vàng - cam - trắng ngả dần sang lam - xám tạo nên một thứ ánh sáng siêu nhiên nhưng mềm mại, gợi lên cảm giác đang bước vào giấc mơ nguyên sơ của nhân loại - nơi con người chưa bị chia cắt khỏi cội nguồn. “Cưu mang” không đơn thuần là một bức tranh về mẹ và con. Đó là lời cầu nguyện bằng hội họa, là biểu tượng về cội nguồn của nhân tính.
Xem tranh để thêm lần nhận diện chính mình và cõi thế, để rồi tự hỏi: Làm sao có thể tiếp tục sáng tạo ở tuổi 77, khi đã liệt nửa người? Câu trả lời: Chỉ có thể là nghị lực và niềm đam mê đáng kinh ngạc.