Cội nguồn cách mạng trong ký ức người cán bộ tiền khởi nghĩa

Qua nhiều cơ duyên, tôi may mắn được tiếp cận cuốn tư liệu 80 trang khoảng kín chữ, là nội dung những mảnh ghép, những câu chuyện về đời hoạt động của cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc Lê Thị Ngọc mà các con bà ghi lại ở thời điểm năm 2010, khi bà đã tuổi cao, sức yếu. Đây là một tư liệu quý của người trong cuộc, trong đó có những năm tháng tiền khởi nghĩa hào hùng của cách mạng Việt Nam ở nơi cội nguồn cách mạng Cao Bằng.

Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc Lê Thị Ngọc trong chuyến công tác nước ngoài.

Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc Lê Thị Ngọc trong chuyến công tác nước ngoài.

Sinh ra trong một gia đình dân tộc Nùng khá giả tại xã Phan Thanh, huyện Hòa An, tuổi ấu thơ của bà Lê Thị Ngọc (Đàm Thị Kiều) gắn liền với núi, với rừng, nương rẫy. Năm 1941, ở tuổi 15, bà được sống tại quê hương là nơi các các cán bộ cốt cán làm căn cứ để xây dựng phong trào cách mạng. Địa chỉ “Lô cốt đỏ” ở quê bà chính là nơi làm việc của các yếu nhân cách mạng: Nguyễn Ái Quốc, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Bà đến với cách mạng tự nhiên, nhẹ nhàng do bà được cha mẹ cho học tiếng Kinh từ nhỏ… Bà kể với ngôn từ mộc mạc, nhiều cảm xúc, các con cháu ghi lại như một công cụ ghi âm những lát cắt, mảnh ghép ký ức của bà. Có thể gom lại mấy phần: Núi rừng “phên dậu” Cao Bằng, quê hương của đồng bào Tày, Nùng..., những đốm lửa đầu tiên; Những đồng chí trung kiên; Niềm vui khi Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời; Trong đoàn quân Nam tiến về xuôi và những năm tháng công tác kháng chiến và hòa bình xây dựng đất nước… Đi theo cách mạng, không ngại gian khổ, hy sinh hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Bác Hồ, phục vụ nhân dân, quân đội là nội dung được toát lên ở cuốn hồi ký của gia đình bà. Cũng lý giải làm sao mà người Cao Bằng, đất Cao Bằng với tinh thần yêu nước, dũng cảm đã nhóm lên những đốm lửa cách mạng đầu tiên.

Chi bộ Nặm Lìn - Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh được thành lập ngày 1/4/1930, những người cộng sản Cao Bằng đã sớm nhận thức và thực hiện đường lối của Đảng về vai trò của lực lượng vũ trang, của đấu tranh giải phóng dân tộc bằng vũ trang, đó là phải “Tổ chức ra quân đội của công nông”. Tháng 3/1931, Chi bộ Nặm Lìn đã lựa chọn, cử 4 đồng chí đi học sửa chữa và chế tạo vũ khí tại Trung Quốc, sau đó thành lập binh công xưởng tại vùng núi Lam Sơn (Hồng Việt, Hòa An). Từ đó, nhóm lửa phong trào cách mạng Cao Bằng ngày càng phát triển mạnh. Do thực dân Pháp khủng bố, đàn áp và truy lùng bắt giam nhiều cán bộ cách mạng, từ cuối năm 1940, Đảng bộ Cao Bằng tổ chức đưa khoảng 200 cán bộ, chiến sỹ (huyện Hòa An có 40) sang Trung Quốc huấn luyện quân sự để làm nòng cốt sau này.

Trước tình hình thế giới và trong nước biến chuyển nhanh chóng, với tầm nhìn xa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định Cao Bằng là nơi hội tụ các yếu tố: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước. Ngày 28/1/1941, sau 30 tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Pác Bó (xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Năm ấy, bà Ngọc mới 15 tuổi, nhà lại gần “Lô cốt đỏ” trên núi Lam Sơn, giỏi tiếng Kinh nên được các lãnh đạo Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh cho tham gia Hội Nhi đồng Cứu quốc và làm liên lạc. Bà kể: Cả giai đoạn 1941 đến 1945, bà làm liên lạc, đưa đón khách, dạy chữ Quốc ngữ, chuyển tin, bài cho Báo Việt Nam Độc Lập do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, rồi đồng chí Phạm Văn Đồng phụ trách. Đó cũng là những năm tháng cách mạng còn trong trứng nước, giặc Pháp và tay sai truy lùng gắt gao. Gian khổ, nguy hiểm nhưng bà đều thoát hiểm và cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.

Có một câu chuyện được bà Ngọc kể lại: Khoảng tháng 7/1944, giặc Pháp bao vây căn cứ của ta ở Lủng Ngoảng. Hôm đó rất đông cán bộ họp trên hang núi. Đồng chí Phạm Văn Đồng, Bằng Giang và bà (Đội trưởng độ bảo vệ hội nghị) đều đang họp trên hang. Pháp bắn từ 7h sáng đến 2h chiều, rồi chúng dàn quân tiến sát hang, bà ra lệnh ném tạc đạn vào địch. Chúng hoảng loạn bỏ chạy. Cán bộ rút lui an toàn.

Từ ngày 10 - 19/5/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Hội nghị đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đối với cách mạng Việt Nam: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; chỉ đạo thành lập các tổ chức quần chúng đều lấy tên là Hội Cứu quốc. Hội nghị khẳng định “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”. Để có “một lực lượng vũ trang toàn quốc”, phải có những tổ chức tiểu tổ du kích như đội du kích của bà Ngọc... Cũng từ cuối năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo các đồng chí: Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm… mở một lớp quân sự tập trung đầu tiên tại Pác Bó (Hà Quảng) do Bác trực tiếp đề ra kế hoạch huấn luyện và trực tiếp giảng dạy về cách đánh du kích, cách điều tra nắm tình hình địch…Và cũng tại Pác Bó, theo chỉ thị của Người, Tỉnh ủy Cao Bằng đã thành lập Đội du kích tập trung đầu tiên (còn gọi là Đội du kích Pác Bó), gồm 12 người, do đồng chí Lê Quảng Ba làm đội trưởng. Đến đầu năm 1943, các xã, tổng thuộc các châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình đều có các đội du kích. Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng đã chọn căn cứ Lam Sơn, Hòa An nơi bà Ngọc đang công tác để thành lập binh công xưởng với nhiệm vụ cấp tốc tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng qua Ngân Sơn, Chợ Rã (tỉnh Bắc Kạn) đi về Thái Nguyên và về miền xuôi. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban xung phong Nam Tiến đã tổ chức được 19 đội xung phong tuyên truyền Nam Tiến nhằm khai thông xuống các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Nhờ đó, phong trào cách mạng Cao Bằng có điều kiện liên lạc được với Trung ương Đảng ở miền xuôi và hòa nhập cùng với phong trào cả nước… Bà Ngọc kể lại về một kỷ niệm quốc tế đối với đội du kích của bà, đó là việc nuôi người phi công Mỹ giữa rừng già. Tháng 11/1944, quân đồng minh của cách mạng Việt Nam là Mỹ thường tiến hành ném bom đồn Nhật ở huyện lỵ Hòa An. Một phi cơ Mỹ bị Nhật bắn cháy, viên phi công tên William Shaw nhảy dù xuống rừng. Du kích ta đưa viên phi công về căn cứ, nơi có đồng chí Phạm Văn Đồng đóng bản doanh. Chỉ huy giao cho đồng chí Cao Hồng Lĩnh, giỏi tiếng Anh trò chuyện với viên phi công. Bà Ngọc được giao nhiệm vụ tham gia nấu cơm và đưa tới Lủng Ngoảng nuôi viên phi công. Mọi việc diễn ra tốt đẹp tuy hết sức khó khăn, vất vả, cho đến ngày lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đưa viên phi công trao trả cho đồng minh tại Vân Nam (Trung Quốc).

Thế rồi, sự kiện vĩ đại của cách mạng Việt Nam cũng đến. Đó là lúc 17h ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt đoàn thể tuyên bố thành lâp Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy, trong đó có 25 chiến sĩ là con em các dân tộc tỉnh Cao Bằng, đồng chí Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Sự kiện Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập trên mảnh đất quê hương cội nguồn cách mạng Cao Bằng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Cao Bằng nói riêng. Cùng với sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ huy của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, sự giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng, cùng với nhân dân cả nước, đội quân chủ lực đầu tiên đã không ngừng phát triển, trở thành đội quân vững vàng về chính trị, tài giỏi về quân sự, chiến đấu và chiến thắng trong Cách mạng Tháng Tám, trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và là nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đúng như khẳng định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước chúng ta. Đó là Đội quân Anh hùng của dân tộc Anh hùng.

Bà Lê Thị Ngọc kể trong hồi ký, tháng 8/1945, cách mạng thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đến giữa năm 1945, bà cũng đã 18 tuổi và được kết nạp vào Đảng, bà nhiều năm làm việc tại Thái Nguyên, giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Chồng bà là ông Ngô Đình Quý - một cán bộ lãnh đạo. Bà yên nghỉ tại Nghĩa trang Mai Dịch năm 2014.

Hữu Minh

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/coi-nguon-cach-mang-trong-ky-uc-nguoi-can-bo-tien-khoi-nghia-3175120.html
Zalo