Chuyện tết thời bao cấp
Cho đến bây giờ, sự nghiệp đổi mới đã thực hiện được 40 năm. Xã hội phát triển đến mức mà thế hệ trẻ ngày nay, nói đến chuyện thời bao cấp thì họ không thể tin nổi và cho rằng 'các ông bà cứ thổi phồng về sự khó khăn ngày ấy'.
Với những người thuộc thế hệ U70 như chúng tôi, thì quả thật, ký ức về những năm tháng của thời bao cấp - đặc biệt là vào dịp năm hết tết đến - không bao giờ có thể phai mờ.
Bây giờ, chỉ cần trong túi có tiền là người ta có thể sắm tết mà không cần bước ra chợ. Bởi lẽ, hàng hóa bán online đầy rẫy đủ loại, gọi điện là mang đến tận nhà, thậm chí, nếu mở ra không ưng ý thì được trả lại...
Nhưng thời bao cấp, đặc biệt là vào những năm đất nước vô cùng khốn khó từ năm 1978-1986, tết đúng là dịp “ông vải thì mừng, con cháu thì lo”.
Vậy tết thời bao cấp là thế nào?
Trước hết, nghỉ tết chỉ được 3 ngày, từ 29 hoặc 30 tết đến mùng 2 tết, mùng 3 lại đi làm bình thường. Cảnh tượng khủng khiếp nhất là tại các bến xe, bến tàu. Ở ga Hà Nội, người ta xếp hàng dài cả kilômét để mua được vé đi tàu hỏa; còn tại các bến xe cũng vậy, những chuyến xe chở người về quê ăn tết lèn chặt như “xếp cá hộp”.
Với những công chức, những người ở thủ đô được ăn gạo nhà nước, thì việc sắm tết phải chuẩn bị từ trước đó cả tháng.
Nào là phải đi xếp hàng mua củi, mua than - mà ngày tết, mỗi nhân khẩu sẽ được thêm 5 cân củi hoặc than. Ðể mua được than hay củi, có khi phải xếp hàng từ tờ mờ đất và mất khoảng nửa ngày mới mua được vài chục cân than hoặc củi.
Rồi tiếp theo, phải đi xếp hàng đong gạo theo sổ. Cán bộ công chức cao lắm thì được 17 cân gạo/tháng, còn những người ăn theo trong gia đình được 13 hoặc 11 cân. Nhưng gạo cũng chỉ được 50%, còn lại phải ăn mì sợi hoặc hạt bo bo hay ngô xay, thậm chí cả khoai lang, khoai tây...
Ngày tết, mỗi người được 1 cân gạo nếp và đi xếp hàng nửa ngày mới đến lượt. Cay đắng nhất khi gần đến lượt mình thì được thông báo là hết gạo. Cảnh người dân khóc lóc ở các cửa hàng gạo là chuyện thường thấy.
Mua được gạo về, bắt đầu lo đi xếp hàng để mua các túi hàng tết theo tiêu chuẩn. Ngày ấy, mỗi người, mỗi gia đình tùy theo số khẩu nhiều hay ít mà được 1 túi hàng tết to hay nhỏ. Ví dụ, một gia đình 7 người thì được 1 túi hàng bao gồm: 1,5 lạng bóng bì; 2 gói trà Hồng Ðào hoặc Thanh Tâm; 2 bao thuốc lá Tam Ðảo, 1 bao Ðiện Biên và 1 bao Trường Sơn; 2 hộp mứt, 1 gói bích quy Thanh Thảo; 1 gói mì chính khoảng 15 gram; vài ba con mực khô; 1 bánh pháo tết dài khoảng 50cm...
Còn về thực phẩm, ngày tết mỗi người được thêm 3 lạng thịt và cả nhà don góp lại đi mua thịt về để gói bánh chưng. Nhưng để có thịt gói được bánh chưng cũng không hề đơn giản, phải đi xếp hàng từ sớm. Phải gia đình nào có điều kiện mới gói được nồi bánh chưng 5-7 cái rồi mang đi thuê luộc.
Thịt lợn - nếu ai mua thịt thủ, sườn, chân giò thì được gấp rưỡi, nhưng cũng chỉ nhà nào “kha khá” mới dám mua các loại thịt này, còn lại phải cố mua được loại thịt nào nhiều mỡ để còn rán mỡ ăn dần.
Thời điểm sắp tết, cán bộ công chức khổ nhất khi chờ đồng lương. Nhiều cơ quan xếp hàng ở ngân hàng phải mất cả tuần, bởi ở các ngân hàng, tiền luôn luôn thiếu. Còn khái niệm thưởng tết ngày ấy hầu như không có, được đồng lương hoặc thậm chí được lĩnh lương trước nửa tháng đã là may mắn lắm rồi.
Trong 3 ngày tết, cũng chỉ dám có bữa cúng tất niên và bữa khai xuân vào sáng mùng 1 là có tương đối đủ các món như bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành. Nhà nào sang hơn thì có bát thịt đông, có đĩa bóng xào với súp lơ hay su hào, sang nữa thì có được khoanh giò và đĩa thịt gà luộc... Còn các bữa khác cũng lại rất bình thường, có hơn chăng chỉ là một tí thịt.
Cảnh đông vui tấp nập nhất là khi người ta đi chợ tết vào ngày 29 hoặc sáng 30, mà cũng chủ yếu tập trung ở chợ hoa phố Hàng Lược. Nhà nào mua được cành đào cắm tết thì coi như đã có mùa xuân.
Ngày ấy, tôi là thanh niên đang độ tuổi luôn “ăn không biết no, ngủ không biết chán”. Tuổi trẻ sao sức ăn khủng khiếp thế! Ước mơ lớn nhất của tôi trong những năm tháng ấy là ngày 30 tết được ăn một bữa thịt lợn cho “chán mồm”. Thế nào là “chán”? Có nghĩa là ăn thịt lợn luộc chấm nước mắm khi nào thấy buồn ở mang tai, có nghĩa là ngấy rồi.
Sở dĩ nhà tôi còn được ăn một bữa thịt lợn cho “chán mồm” vì ở quê, mẹ tôi thường nuôi 1 con lợn. Tết đến, vài ba nhà chung nhau mổ con lợn tầm dăm chục cân, chia nhau từng tí một, thịt mỡ phải rán để dành, xương lợn phải băm thật nhuyễn rồi trộn muối mặn, giã riềng rang khô để ăn sau này.
Những năm tháng đó, cảm giác thèm được một bữa ăn no, thèm được một bữa ăn có thịt, có cá là cảm giác thường trực... Tết đến, vài ba nhà chung nhau mổ con lợn tầm dăm chục cân, chia nhau từng tí thịt một, thịt mỡ phải rán để dành, xương lợn phải băm thật nhuyễn rồi trộn muối mặn, giã riềng rang khô để ăn sau này.
Ngày ấy, sức như tôi ăn hết 1 cái bánh chưng to là chuyện bình thường. Tôi nhớ khi đi bộ đội ở Lào, có những lúc tôi ăn được 7 bát cơm hoặc ăn hết 3 phong lương khô 702, còn loại bánh mì 225 gram thì ăn hết 4 cái liền là chuyện... vặt.
Những năm tháng đó, cảm giác thèm được một bữa ăn no, thèm được một bữa ăn có thịt, có cá là cảm giác thường trực. Mà ngày ấy, cái gì cũng cần tem phiếu, thậm chí đi mua rau cũng phải có tem phiếu.
Năm 1982, tôi từ bộ đội chuyển về làm phóng viên Báo Công an nhân dân. Cứ cách tết 1 tuần là tòa soạn huy động cán bộ phóng viên, ai có mối quan hệ nào thì cố gắng “ngoại giao” kiếm thực phẩm về cho anh em. Người thì xin được vài ba tạ su hào, người xin mua được dăm chục cân cá mè đánh ở hồ Tây... Còn tôi, có năm xin được hẳn 1 con lợn 70 cân mang về cho tòa soạn gần 50 người.
Người chia thịt lợn giỏi nhất của Báo Công an nhân dân thời đó là anh Ðặng Lân - cán bộ Phòng Thư ký tòa soạn, chuyên thiết kế báo. Anh Lân chia thịt lợn giỏi đến mức mà chia hàng chục suất nhưng suất nào cũng có một tí tim, gan, lòng non, lòng già đủ cả...
Nhưng tết Hà Nội hồi ấy lại cũng có một nỗi hãi hùng, đó là nạn đốt pháo. Sợ nhất là lúc giao thừa, nhà nhà đốt pháo, người người đốt pháo, bầu không khí như đặc lại bởi khói pháo. Khói pháo ngửi thoang thoảng còn thấy thơm thơm, cũng có chút thi vị; nhưng nếu đốt quá nhiều lại cảm thấy tức thở, ngột ngạt và trong tai lúc nào cũng lùng bùng bởi âm thanh chát chúa của pháo. Ði ra đường hãi nhất là bị trẻ con ném pháo vào người.
Tết ngày ấy, đêm 30 cũng làm gì có pháo hoa như bây giờ, cũng không có chương trình truyền hình Táo Quân hay văn nghệ tết mà cùng lắm là được nghe Chủ tịch nước chúc tết qua đài phát thanh.
Bây giờ, nhiều người lại nhớ tết xưa và cho rằng đó mới thực sự “là tết”, là mang hồn cốt của văn hóa dân tộc, là nét đẹp của phong tục tập quán. Thật ra, nếu như bây giờ cho quay trở lại tết như ngày đó, chắc chắn sẽ “phát điên”!