Chuyển hóa khủng hoảng thành động lực cải cách trước chính sách thuế đối ứng của Mỹ
Việt Nam cần hướng đến các mục tiêu giảm thiểu tác động tiêu cực của thuế đối ứng đến DN xuất khẩu; ổn định thị trường và chuỗi cung ứng nội địa; duy trì niềm tin của nhà đầu tư và đối tác quốc tế; chuyển hóa khủng hoảng thành động lực cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đây là những giải pháp chiến lược nhằm hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam thích ứng trước những thay đổi trong chính sách thuế quan đối ứng của Mỹ được các chuyên gia đưa ra tại tọa đàm đối thoại chính sách với chủ đề “Chính sách thuế quan đối ứng của Hoa Kỳ: Tác động và điều chỉnh chiến lược cho Việt Nam”, do Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức, ngày 8/5.

Quang cảnh tọa đàm. Ảnh: Thanh Hoa
Thách thức lớn
Hiện, quy mô xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ chiếm đến 30% kim ngạch xuất khẩu, thặng dư thương mại với Hoa Kỳ. Về cơ cấu, thì 70% hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ là những mặt hàng chế biến chế tạo chủ lực như điện, điện tử, linh kiện, điện thoại, da giày, dệt may, gỗ… Những mặt hàng này phần lớn thuộc lĩnh vực sản xuất của khu vực FDI và cũng là động lực của nền kinh tế những năm qua.
Việc Mỹ tuyên bố áp thuế đối ứng từ ngày 2/4/2025, với mức thuế suất cao hơn nhiều so với các kỳ vọng trước đó đã gây nên một cú sốc toàn cầu. Đặc biệt, đối với Việt Nam, việc áp mức thuế lên tới 46% sẽ là cú sốc rất lớn nếu trong vòng 90 ngày không đạt được một thỏa thuận đàm phán tích cực để hoãn áp dụng chính sách này.
Phân tích tác động của chính sách thuế quan đối ứng của Hoa Kỳ, PGS.TS Phan Hữu Nghị - Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân cho hay, thuế đối ứng sẽ có tác động đến các cam kết quốc tế và Hiệp định FTA đã ký, ảnh hưởng đến sự dịch chuyển và thu hút FDI và xuất khẩu trong - sau giai đoạn đàm phán; gián đoạn chuỗi cung ứng, tăng chi phí... Đặc biệt, sự sụt giảm trong xuất khẩu và thặng dư thương mại có thể gây áp lực giảm giá lên đồng Việt Nam do nguồn cung ngoại tệ giảm và nguy cơ dòng vốn đầu tư chảy ra ngoài.

Thuế đối ứng ảnh hưởng lớn tới nhiều ngành nghề.
Cùng với những tác động trên, TS Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính cũng đã đi sâu phân tích chi tiết về tác động cụ thể đến các ngành nghề như: dệt may, da giày; ngành điện tử; ngành đồ gỗ; ngành thủy sản; tác động tới thu hút FDI.
Theo đó, ngành dệt may, da giày phụ thuộc rất cao vào thị trường Mỹ, do vậy, tác động tiêu cực là rất lớn khi xuất khẩu giảm mạnh, số lượng lao động bị ảnh hưởng. Đối với ngành điện, mặc dù một số mặt hàng điện tử cụ thể (điện thoại thông minh, máy tính, chip) đã được miễn trừ khỏi thuế đối ứng trong một sắc lệnh điều chỉnh, nhưng mối đe dọa về các loại thuế mới đối với chất bán dẫn trong tương lai vẫn còn hiện hữu, tạo ra sự không chắc chắn cho ngành.
Trong khi đó, ngành đồ gỗ là phụ thuộc đặc biệt cao. Về lâu dài, Việt Nam có nguy cơ mất thị phần vào tay các đối thủ cạnh tranh như Mexico và Indonesia nếu mức thuế cao được duy trì.
Đối với ngành thủy sản, Mỹ là thị trường lớn thứ 2 đối với thủy sản Việt Nam, do vậy, ngành này có nguy cơ đối mặt với việc các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ chuyển sang các nhà cung cấp từ các quốc gia khác như Thái Lan.
Đặc biệt, việc áp thuế đối ứng sẽ tác động không nhỏ đến khả năng thu hút vốn FDI khi giảm sức hấp dẫn của Việt Nam, dẫn đến nguy cơ chuyển hướng nguồn vốn sang các quốc gia như Mexico, Ấn Độ, hoặc Indonesia.
Về tác động đến tiêu dùng trong nước, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, chính sách thuế quan của Mỹ không chỉ tác động đến DN xuất khẩu, mà còn tác động mạnh đến DN hoạt động trong nước. Bởi lẽ, hàng hóa từ các nước khác không xuất khẩu được sang Mỹ, đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc sẽ tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa tại Việt Nam. Điều này sẽ gây sức ép rất lớn đến các DN sản xuất hàng hóa trong nước.
Đa dạng hóa thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh
Để giảm thiểu tác động từ các mức thuế đối ứng của Mỹ, PGS.TS Phan Hữu Nghị, Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ, cách tiếp cận của Việt Nam cần hướng đến các mục tiêu như giảm thiểu tác động tiêu cực của thuế đối ứng đến DN xuất khẩu; ổn định thị trường và chuỗi cung ứng nội địa; duy trì niềm tin của nhà đầu tư và đối tác quốc tế; chuyển hóa khủng hoảng thành động lực cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Theo PGS.TS Phan Hữu Nghị, các biện pháp phòng ngừa, chuẩn bị đàm phán và thích ứng cần triển khai trước khi rủi ro trở thành hiện thực để bảo vệ DN và giữ vững chuỗi cung ứng FDI, tránh những phát sinh mới hậu đàm phán thuế đối ứng với Mỹ nhưng lại phát sinh đàm phán xem xét lại danh mục hàng hóa với các đối tác hàng đầu khác như: Trung Quốc, EU, Nhật Bản. Về lâu dài, Việt Nam cần xây dựng chính sách để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu, tránh phụ thuộc vào một thị trường nhất định. Ngoài ra, cần rà soát lại các tác động về nguồn thu thuế, chuyển giao công nghệ, ảnh hưởng môi trường của các tập đoàn, công ty đa quốc gia tại Việt Nam để thu hút FDI có chọn lọc. Việt Nam cũng cần xây dựng bền vững kinh tế địa phương bằng cách đầu tư vào hạ tầng, đào tạo lao động tại chỗ, phục hồi tài nguyên thiên nhiên và gắn kết cộng đồng tại địa phương để tạo nên một nền kinh tế có khả năng chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài.
Đồng quan điểm, theo PGS.TS. Tạ Văn Lợi, Hiệu trưởng Trường Kinh doanh cho rằng, cần làm rõ giá trị đóng góp của Việt Nam trong các sản phẩm xuất khẩu để đàm phán mức thuế hợp lý; đồng thời loại bỏ các mặt hàng bị cáo buộc là hàng Trung Quốc sử dụng Việt Nam làm điểm trung chuyển.
Ngoài ra, với sự lên ngôi của công nghệ cao, PGS.TS Tạ Văn Lợi khuyến nghị, Việt Nam nên chọn lĩnh vực phần mềm, bán dẫn, kinh tế số… là ngành kinh tế thế mạnh, cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thu hút dòng vốn FDI chất lượng, nhất là FDI từ Mỹ. Cùng với đó là nền chủ động khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là Mỹ nhằm tìm kiếm nguồn lực.
“Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận về quan hệ thương mại và đầu tư từ thế bị động sang chủ động và cần có sự cân bằng cả hai chiều sẽ đạt lợi ích tối ưu hơn” – PGS.TS Tạ Văn Lợi nhấn mạnh.
Còn trong ngắn hạn, nhiều chuyên gia cho rằng cần hỗ trợ các DN và ngành nghề bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế, giúp đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong năm 2025 bằng các chính sách về thuế phí, gói tín dụng ưu đãi… nhưng cần chú ý cách triển khai để tránh trở thành trợ cấp, cạnh tranh không công bằng.