Chuyên gia kiến nghị tổ chức kiểm định nước ngoài cần công khai như trong nước
Số lượng chương trình đào tạo được kiểm định bởi tổ chức nước ngoài mà giấy chứng nhận còn thời hạn thấp hơn số liệu Bộ thống kê.
Công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học ngày càng được quan tâm, đặc biệt từ sau khi có Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhiều cơ sở giáo dục đại học hướng đến thực hiện kiểm định chất lượng bởi tổ chức kiểm định nước ngoài ngày càng nhiều.
Theo số liệu của Cục Quản lý chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến ngày 31/8/2024, cả nước có 574 chương trình đào tạo của 63 cơ sở giáo dục đại học được đánh giá bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài.
Về kiểm định cấp cơ sở, cả nước có 11 cơ sở giáo dục đại học được công nhận đạt chuẩn bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài.
Tổng số chương trình được kiểm định nước ngoài còn thời hạn thấp hơn số liệu Bộ thống kê
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung – Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt đánh giá, số lượng cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo được kiểm định bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài phản ánh xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của các trường đại học Việt Nam.
Theo xu thế đó, số lượng các cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo được kiểm định bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới.
Trong khi đó, Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Hảo - Trưởng Bộ phận Học thuật xuất sắc, Trường Đại học Quốc tế Miền Đông nhận định, con số thực tế về các chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng giáo dục bởi tổ chức nước ngoài mà giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục còn thời hạn thấp hơn con số 574.
“Trong số 574 chương trình đào tạo đã được kiểm định chất lượng giáo dục bởi tổ chức nước ngoài, có nhiều chương trình đào tạo đã hết thời hạn chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục nhưng chưa tái kiểm định.
Cũng theo số liệu công khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo, một số cơ sở giáo dục có chương trình đào tạo được đánh giá bởi các tổ chức nước ngoài nhưng đã tái kiểm định theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hoặc có những chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng giáo dục theo cả tổ chức trong nước và nước ngoài”, chuyên gia phân tích.
Dù vậy, Phó giáo sư Hảo nhận định, số liệu thống kê trên cho thấy trong những năm gần đây, các cơ sở giáo dục đã có nhiều nỗ lực trong việc tham gia kiểm định chất lượng giáo dục bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài, đặc biệt ở cấp chương trình đào tạo.
Phó giáo sư Lê Văn Hảo cho rằng, hiện tượng các cơ sở giáo dục đại học hướng tới kiểm định chất lượng giáo dục theo các chuẩn nước ngoài ngày càng nhiều bởi nó cho thấy một mặt các trường muốn được cọ xát với các tiêu chuẩn của tổ chức kiểm định chất lượng nước ngoài để xem mình đang ở đâu so với các yêu cầu của tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, mặt khác để khẳng định chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế để thu hút nhiều hơn các đối tượng tuyển sinh".
Tuy nhiên, thầy Hảo lưu ý rằng, các cơ sở giáo dục cũng nên xem xét việc lựa chọn tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài phù hợp với mục đích và tính hợp pháp (được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận hoạt động ở Việt Nam), đồng thời cần hướng đến mục tiêu được công nhận tín chỉ lẫn nhau và trao đổi người học một khi các chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục trong nước và nước ngoài cùng được một tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục có uy tín đánh giá và công nhận. Theo thầy Hảo, hầu hết các chương trình đào tạo của Việt Nam được công nhận chất lượng bởi các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài hiện chưa đạt được điều này.
Tính đến thời điểm này, cả nước có 10 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận hoạt động tại Việt Nam.
Phó giáo sư Hảo đánh giá, 10 tổ chức này đều là các đơn vị có uy tín tốt ở nước ngoài. Một số tổ chức chuyên kiểm định chất lượng giáo dục cấp chương trình đào tạo, một số khác kiểm định chất lượng giáo dục ở cả hai cấp.
Ở cấp chương trình đào tạo, trong khi một số tổ chức (như ACQUIN, AQAS, AUN-QA) được phép kiểm định chất lượng giáo dục đối với tất cả các ngành đào tạo, thì một số tổ chức khác (như ABET, ACBSP, FIBAA) thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục mang tính đặc thù như các ngành Kỹ thuật, Kinh tế,... Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục cho một số lĩnh vực đặc thù (như Y khoa, Điều dưỡng) được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận để hoạt động tại Việt Nam.
Phân tích chi tiết hơn về hoạt động của 10 tổ chức này, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt Nguyễn Kim Dung nhận định, hiện nay, phần lớn các cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo đăng ký với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài chủ yếu là được đánh giá bởi AUN-QA (Tổ chức Mạng lưới Bảo đảm chất lượng các trường đại học Đông Nam Á).
“Mặc dù chúng ta thường gọi là kiểm định theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng trên thực tế bộ tiêu chuẩn này hiện mới chỉ có giá trị trong khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, với xu thế ngày càng hướng tới những chuẩn mực chất lượng cao hơn, trong tương lai, số lượng các trường đại học và các chương trình đào tạo tại Việt Nam khi lựa chọn AUN-QA để đánh giá có thể sẽ giảm dần”, chuyên gia đánh giá.
Bên cạnh đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung, trong 10 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài được công nhận hoạt động tại Việt Nam, trước mắt có thể thấy chỉ có một số tổ chức thực sự có mong muốn được mở rộng phát triển ở nước ta như FIBAA, ASIIN, AUN-QA,...
Còn một số tổ chức khác hoạt động chủ yếu vì mục đích thực hiện các nội dung đã thỏa thuận theo ký kết hợp tác về phát triển giáo dục giữa 2 Chính phủ (như HCERES).
“Điều này có nghĩa rằng một số tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoàisẽ phát triển mạnh hơn trong tương lai. Trong khi đó, một số tổ chức sau khi đã hoàn thành xong nhiệm vụ hoặc tìm hiểu rõ thực trạng và nhu cầu có thể sẽ không thực sự muốn mở rộng hoạt động tại Việt Nam”, chuyên gia nhận định.
Từ đó, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung đánh giá, cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tùy theo sứ mạng, tầm nhìn sẽ quyết định lựa chọn kiểm định chất lượng bởi tổ chức kiểm định chất lượng trong nước hoặc nước ngoài. Trong đó, quan sát cho thấy sẽ có khoảng từ 15-20% cơ sở tiếp tục lựa chọn kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài, và phần lớn còn lại sẽ đi theo xu hướng kiểm định trong nước và khu vực.
Sự khác biệt trong hoạt động giữa tổ chức kiểm định trong nước và nước ngoài
Chia sẻ thêm về điểm khác biệt trong hoạt động của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung cho hay, hoạt động của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước chịu sự quản lý chặt chẽ bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ bộ tiêu chuẩn kiểm định, cách thức thực hiện kiểm định, hoạt động của các trung tâm,...
Trong khi đó, đối với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ có thể giám sát cách thức hoạt động, chứ không thể can thiệp hay thay đổi các yếu tố từ bộ tiêu chuẩn kiểm định, cách đánh giá,... của họ.
Đồng quan điểm, Phó giáo sư Hảo phân tích, trong các quyết định công nhận hoạt động tại Việt Nam đối với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài, phổ biến có câu: “được thực hiện các hoạt động đánh giá, công nhận tại Việt Nam theo quy trình và các tiêu chuẩn ghi trong Hồ sơ đề nghị…”.
Như vậy, mỗi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài được phép thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục tại Việt Nam theo quy trình và tiêu chuẩn do chính họ xây dựng, trong khi các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam hiện phải tuân thủ cùng một quy trình và cùng bộ tiêu chuẩn đánh giá do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Bên cạnh đó, xem xét quy trình đánh giá của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài cho thấy đợt khảo sát chính thức thường ít ngày và số lượng thành viên đoàn đánh giá ngoài cũng ít hơn so với quy trình kiểm định chất lượng giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài cũng phải thực hiện các chế độ báo cáo định kỳ về Bộ Giáo dục và Đào tạo và chịu sự giám sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đối với các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trong nước thì ngoài việc chịu sự giám sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo, còn phải được định kỳ đánh giá theo Bộ tiêu chuẩn gồm 5 tiêu chuẩn, 25 tiêu chí (theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT). Ngoài ra, về mặt tài chính, các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trong nước phải tuân thủ các yêu cầu liên quan đến Luật đấu thầu và các thủ tục đấu thầu hiện khá phức tạp.
Cần tăng cường sự hợp tác giữa các tổ chức kiểm định trong nước và quốc tế
Trưởng Bộ phận Học thuật xuất sắc, Trường Đại học Quốc tế Miền Đông đánh giá, sự hiện diện chính thức của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài tại Việt Nam đã và đang tạo ra động lực giúp các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam tiếp tục cải tiến và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Về lâu dài, các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam sẽ dần tìm đến các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục (cả trong nước hoặc ngoài nước) có uy tín cao trong hoạt động, có đội ngũ kiểm định viên giàu kinh nghiệm, và có khả năng kiểm định chất lượng giáo dục đối với các chương trình đào tạo có tính đặc thù nghề nghiệp.
Vì vậy, Phó giáo sư Hảo cho rằng bên cạnh việc tôn tạo nét “văn hóa riêng” và không ngừng bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm định viên, mỗi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước nên có sự hợp tác với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài để tiến đến có thể cùng tham gia kiểm định chất lượng giáo dục các chương trình đào tạo chuyên sâu, đặc thù, theo lĩnh vực nghề nghiệp.
“Điều này cũng phù hợp với Mục tiêu cụ thể giai đoạn 2026 – 2030 (phấn đấu 100% các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước tham gia các tổ chức bảo đảm chất lượng quốc tế hoặc có thỏa thuận hợp tác quốc tế trong việc công nhận kết quả kiểm định lẫn nhau) của Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 – 2030”, được ban hành theo Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 14/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ”, Phó giáo sư Lê Văn Hảo đánh giá.
Về mặt quản lý Nhà nước, bên cạnh việc thúc đẩy hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đối với các tổ chức nước ngoài, Phó giáo sư Hảo cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần có các chế tài và quản lý chặt chẽ; cung cấp thông tin đầy đủ để đảm bảo tính công bằng, minh bạch giữa các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, từ đó tạo sự yên tâm hơn cho các cơ sở giáo dục khi lựa chọn tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục để đánh giá.
Ngoài ra, chuyên gia nhận định còn có một xu hướng về chính sách kiểm định chất lượng giáo dục cũng cần được lưu ý để đảm bảo tính hài hòa.
Cụ thể, hiện các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài vẫn tiếp tục sử dụng tiếp cận đánh giá dựa trên nguyên tắc (principles – based) để có thể phù hợp với nhiều quốc gia.
Trong khi đó, các chủ trương mới của Việt Nam về kiểm định chất lượng giáo dục (thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật đang được lấy ý kiến để hoàn thiện) cho thấy cách tiếp cận đánh giá dựa trên quy định (rules – based), tức yêu cầu các cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo phải đáp ứng các quy định hiện hành của Việt Nam, sẽ được nhấn mạnh nhiều hơn trong thời gian tới.
Cũng đánh giá sự tham gia của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài ở Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung phân tích: “Việt Nam đã và đang có những bước đi chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế về giáo dục. Sự xuất hiện của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài ở nước ta sẽ mang lại nhiều màu sắc tạo thuận lợi cho người học và cho sự phát triển chung của cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Và sự hợp tác, gắn kết của các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trong nước với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài là điều cần thiết để đẩy mạnh và hỗ trợ các trung tâm kiểm định trong nước có thể hội nhập và phát triển như mong muốn”, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt khẳng định.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung: “Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra lộ trình yêu cầu các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trong nước phải có kiểm định viên tham gia vào đánh giá ngoài của các đoàn quốc tế, vậy thì Bộ cũng nên có sự công bằng trong việc yêu cầu các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài nhất thiết phải có kiểm định viên tham gia vào quá trình kiểm định của các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trong nước, để họ hiểu thêm văn hóa và có sự hợp tác chặt chẽ hơn với các trung tâm kiểm định của Việt Nam.
Sự hợp tác giữa các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục với nhau cũng là 1 trong những hoạt động đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ cộng động, và hoạt động này còn mang ý nghĩa không những phục vụ cộng đồng quốc gia mà còn mang tính quốc tế”, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung nêu đề xuất.