Chuyên gia gợi ý hướng phát triển kinh tế biển xanh cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu chuyển mình mạnh mẽ sang mô hình phát triển xanh, bền vững và phát thải ròng bằng 0, kinh tế biển đang trở thành một trong những hướng đi chiến lược được nhiều quốc gia chú trọng. Theo TS. Dư Văn Toán - chuyên gia đến từ Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt xu thế này để xây dựng một nền kinh tế biển xanh hiện đại, hiệu quả và có năng lực cạnh tranh quốc tế.

Kinh tế biển xanh: Xu thế toàn cầu

Theo TS. Dư Văn Toán, kinh tế biển toàn cầu đang bước vào giai đoạn chuyển dịch mạnh mẽ với quy mô và cơ cấu đầu tư thay đổi đáng kể. Báo cáo “Tương lai Đại dương 2050” do DNV công bố dự báo đến năm 2030, kinh tế đại dương có thể đạt hơn 3.000 tỷ USD, tạo ra khoảng 40 triệu việc làm, trong đó tăng trưởng nhanh nhất đến từ các lĩnh vực như điện gió ngoài khơi, nuôi trồng thủy sản, chế biến hải sản và dịch vụ cảng biển.

Về phân bổ đầu tư, Trung Quốc được dự báo sẽ vươn lên dẫn đầu, chiếm 26% vốn đầu tư toàn cầu vào năm 2050, tiếp theo là châu Âu (14%) và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam đạt 8%, với vị trí thứ 7 toàn cầu. Đáng chú ý, số lao động trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi được dự báo tăng gấp 250 lần so với năm 2018.

TS. Dư Văn Toán tại Hội thảo Thể chế, Quy hoạch cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh.

TS. Dư Văn Toán tại Hội thảo Thể chế, Quy hoạch cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh.

Hiện nay, tổng vốn đầu tư xây dựng (CAPEX) cho các ngành kinh tế biển toàn cầu đạt gần 20.000 tỷ USD, phần lớn vẫn tập trung vào dầu khí (80%). Tuy nhiên, đến năm 2050, đầu tư cho điện gió sẽ chiếm 50%, trong khi dầu khí giảm còn 25%. Các lĩnh vực như nuôi biển, khử mặn, điện sóng và điện hải lưu cũng tăng mạnh.

Nổi bật trong nhóm ngành này là điện gió ngoài khơi. Từ nay đến năm 2050, dự kiến thế giới sẽ đầu tư hơn 6.000 tỷ USD để phát triển 2.000 GW công suất điện gió biển chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư vào các ngành biển xanh, nhưng hiện tại mới đạt chưa đầy 1% mục tiêu. Đây là “mỏ vàng” còn nguyên tiềm năng, mà Việt Nam hoàn toàn có thể khai thác.

TS. Toán nhấn mạnh, các khoản đầu tư bền vững vào đại dương mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, với tỷ suất hoàn vốn (ROI) trung bình từ 400 - 615%. Đặc biệt, đầu tư vào rừng ngập mặn, năng lượng tái tạo, vận tải biển xanh hay protein đại dương bền vững đều cho thấy lợi ích kinh tế vượt trội.

Việt Nam: Từ chiến lược quốc gia đến hành động cụ thể

Ngay từ năm 2018, Việt Nam đã xác định rõ định hướng phát triển bền vững kinh tế biển trong Nghị quyết 36-NQ/TW của Trung ương. Theo đó, 6 nhóm ngành trọng tâm bao gồm: du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và khoáng sản biển, nuôi trồng và khai thác hải sản, công nghiệp ven biển, và các ngành kinh tế biển mới với năng lượng tái tạo là mũi nhọn.

Tuy nhiên, theo TS. Dư Văn Toán, để bắt kịp nhịp chuyển dịch toàn cầu và phát huy tiềm năng biển một cách bền vững, Việt Nam cần một bước tiến mang tính đột phá, cả về chính sách lẫn đầu tư.

Từ nay đến năm 2050, dự kiến thế giới sẽ đầu tư hơn 6.000 tỷ USD để phát triển 2.000 GW công suất điện gió biển chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư vào các ngành biển xanh.

Từ nay đến năm 2050, dự kiến thế giới sẽ đầu tư hơn 6.000 tỷ USD để phát triển 2.000 GW công suất điện gió biển chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư vào các ngành biển xanh.

Trước tiên, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế biển xanh, bao gồm việc xây dựng Luật Kinh tế biển, thành lập Hội đồng tư vấn Kinh tế biển quốc gia để điều phối chính sách liên ngành, đa lĩnh vực, liên vùng. Việc quy hoạch không gian biển cũng cần được cập nhật theo hướng tích hợp, vừa đảm bảo khai thác hiệu quả, vừa bảo vệ hệ sinh thái biển.

Trong Quy hoạch điện VIII sửa đổi, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển tới 139 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2050, với tổng vốn đầu tư hơn 420 tỷ USD. Riêng đến năm 2035, con số này là 17 GW với khoảng 50 tỷ USD vốn cần huy động. Đây là một trong những mục tiêu tham vọng nhất của khu vực châu Á, nếu được thực hiện đúng hướng, sẽ trở thành trụ cột của chuyển dịch kinh tế biển xanh Việt Nam.

Không chỉ sản xuất điện sạch, các dự án điện gió ngoài khơi còn có thể tích hợp với các mô hình nuôi trồng hải sản xa bờ, tạo ra “tổ hợp kinh tế biển xanh” vừa sản xuất, vừa bảo vệ môi trường biển.

Một xu thế mới nổi bật khác là phát triển nuôi biển công nghệ cao, tuần hoàn, có ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ cảm biến theo thời gian thực. Các mô hình này không chỉ cho năng suất cao mà còn giảm thiểu rủi ro ô nhiễm, gắn với giám sát chất lượng môi trường biển chặt chẽ.

TS. Dư Văn Toán cho rằng, Việt Nam nên sớm có chính sách thu hút vốn xanh quốc tế cho các dự án nuôi biển hiện đại, đồng thời phát triển các giống thủy sản phù hợp, vật liệu mới thân thiện môi trường và hạ tầng dịch vụ hỗ trợ nuôi xa bờ.

Du lịch biển, đặc biệt là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp trên các đảo xanh hoặc đảo nhân tạo, được xác định là ngành kinh tế biển nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, cần đầu tư mạnh vào hạ tầng an toàn bãi tắm, bến cảng tàu du lịch, phương tiện vận chuyển xanh, công nghệ giám sát môi trường và chuyển đổi số dịch vụ.

Ngành hàng hải cũng đang đối mặt với yêu cầu chuyển đổi từ tàu sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang điện hóa, hydrogen xanh, ứng dụng vật liệu mới ít phát thải khí nhà kính, đồng thời phát triển các cảng biển xanh, nơi tích hợp logistics thông minh, lưu trữ năng lượng và kiểm soát khí thải hiệu quả.

Theo TS. Dư Văn Toán, các ngành công nghiệp ven biển, từ lọc hóa dầu, chế biến hải sản đến khu công nghiệp đảo ven biển, cần được quy hoạch lại theo mô hình tuần hoàn, không phát thải. Những công nghệ mới như khử muối để sản xuất nước ngọt, khai thác hydrogen tự nhiên dưới đáy biển, hay phát triển điện sóng, điện hải lưu, điện OTEC (nhiệt năng đại dương) và điện thẩm thấu (osmosis) cần được nghiên cứu đầu tư dài hạn.

Để làm được điều đó, Việt Nam không chỉ cần một tầm nhìn chiến lược mà còn cần nguồn lực tài chính, công nghệ và nhân lực đồng bộ. Việc thiết lập các cơ chế tài chính xanh, hợp tác công - tư, tranh thủ vốn quốc tế và chuyển giao công nghệ là điều kiện tiên quyết.

Trong bối cảnh thế giới đang dịch chuyển mạnh mẽ sang mô hình kinh tế biển xanh, Việt Nam có cơ hội lớn để định hình lại chiến lược phát triển kinh tế biển theo hướng hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường và hiệu quả về kinh tế. Theo TS. Dư Văn Toán, “biển không chỉ là tài nguyên, mà còn là không gian đổi mới và phát triển. Nếu đi đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, không phải bằng khai thác cạn kiệt, mà bằng sự thông minh, xanh và bền vững”.

Đình Khương

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/chuyen-gia-goi-y-huong-phat-trien-kinh-te-bien-xanh-cho-viet-nam-728496.html
Zalo