Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam: Điều chỉnh Luật thuế 71 là đòi hỏi hết sức khách quan
Theo ông Lương Quốc Đoàn, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, việc điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật nói chung và Luật Thuế GTGT nói riêng để phù hợp với thực tiễn trong từng giai đoạn phát triển của đất nước là đòi hỏi hết sức khách quan.
Là người đứng đầu tổ chức hội đại diện cho hàng triệu nông dân Việt Nam, ông Lương Quốc Đoàn chia sẻ với PetroTimes về hoàn cảnh ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (Luật thuế 71).
Theo ông Đoàn, vào năm 2008 Quốc hội khóa XII thông qua Luật Thuế GTGT, theo đó phân bón và máy móc thiết bị chuyên dùng cho nông nghiệp thuộc nhóm đối tượng chịu thuế với mức thuế 5%.
Sau đó cuộc khủng hoảng kinh tế tại châu Á - Thái Bình Dương đã khiến nước ta gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là năm 2012-2013. Do đó cần có sự thay đổi chính sách để tháo gỡ khó khăn cho ngành nông nghiệp.
Tại thời điểm đó, Quốc hội cũng đã thảo luận về 3 mức thuế 0%, 5% và 10% nhưng trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang gặp khó khăn nên năm 2014 Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật thuế 71 trong đó quy định các mặt hàng phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp không phải chịu thuế GTGT.
Ông Đoàn cho rằng, đối với bất kỳ sắc luật nào được ban hành, việc đánh giá tác động đến kinh tế - xã hội và mọi mặt của đời sống là hết sức quan trọng; và trong quá trình thực thi cũng không tránh khỏi còn có những bất cập do sự thay đổi của quá trình phát triển trong nước, cũng như chịu tác động bởi kinh tế thế giới, các chính sách, thỏa thuận hợp tác giữa các nước. Chính vì vậy, việc điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật nói chung và Luật Thuế GTGT nói riêng để phù hợp với thực tiễn trong từng giai đoạn phát triển của đất nước là đòi hỏi hết sức khách quan.
Trước một số ý kiến cho rằng nếu áp thuế 5% đối với mặt hàng phân bón (theo dự thảo của Bộ Tài chính) có thể gây áp lực lên giá phân bón, ông Đoàn cho biết, hiện nay đang có hai luồng ý kiến thể hiện quan điểm.
Quan điểm thứ nhất, đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành, tức là phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp, tàu khai thác thủy sản không thuộc diện chịu thuế GTGT. Vì thuế GTGT là thuế gián thu, người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng nên nếu áp dụng thuế suất 5% đối với phân bón thì nông dân phải chịu tác động do giá phân bón tăng khi có thuế GTGT, dẫn đến tăng giá thành sản phẩm nông nghiệp.
Quan điểm thứ hai, đưa phân bón vào diện chịu thuế GTGT 5%, khi đó sẽ làm giảm giá thành phân bón sản xuất trong nước vì toàn bộ thuế GTGT đầu vào của sản xuất sẽ không hạch toán vào chi phí, mà được khấu trừ vào thuế đầu ra. Các doanh nthiệp sản xuất phân bón sẽ được hoàn thuế, đồng nghĩa các doanh nghiệp sản xuất trong nước có dư địa để giảm giá bán.
“Tôi nghĩ rằng, đối với bất cứ phương án nào thì đều cũng có những tác động nhất định đến nền kinh tế nói chung, trực tiếp là tác động đến người nông dân trong quá trình sản xuất, kinh doanh nói riêng. Do đó, cần tiếp tục có những nghiên cứu thấu đáo, phân tích kỹ lưỡng những lợi ích và tác động mang lại, đảm bảo phương án đó phải giải quyết được hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, tạo cơ sở để Quốc hội quyết định lựa chọn phương án tối ưu” - ông Đoàn khẳng định.
Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hội Nông dân để làm rõ việc áp dụng thuế GTGT đối với mặt hàng phân bón mang lợi ích cho người nông dân, nhà nước và doanh nghiệp như thế nào thì các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải có những nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, chứng minh rõ ràng để đảm bảo tính thuyết phục về những lợi ích mang lại cũng như làm rõ những tác động đến nền kinh tế và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh không chỉ đối với phân bón mà cả đối với ngành nông nghiệp.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nếu áp thuế GTGT 5% đối với mặt hàng phân bón, ngân sách nhà nước sẽ tăng thu khoảng 6.200 tỷ đồng. Một số ý kiến đại biểu Quốc hội, chuyên gia cho rằng việc áp dụng thuế GTGT đối với mặt hàng phân bón sẽ mang lợi ích cho cả người nông dân, nhà nước và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cũng có những ý kiến đánh giá việc áp dụng thuế VAT đối với mặt hàng phân bón sẽ tác động bất lợi đến người nông dân vì nguồn tăng thu ngân sách sẽ thu từ việc sử dụng sản phẩm cho sản xuất nông nghiệp, 5% GTGT sẽ cấu phần vào và làm tăng giá thành nông sản. Ngoài ra một số ý kiến nhất trí đưa mặt hàng này vào diện chịu thuế nhưng với thuế suất 0%.
Chính vì vậy cần phải làm rõ nguồn tăng thu ngân sách là từ đâu? tác động như thế nào đến thu nhập của người nông dân, đến hiệu quả cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp…, trên cơ sở đó quyết định có hay không áp thuế GTGT đối với phân bón, và nếu có áp thuế VAT thì thuế suất ở mức bao nhiêu là phù hợp.
Dù ở góc độ nào thì cũng cần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân, trong đó cần quan tâm nhiều đến người nông dân, bởi lẽ nông dân là lực lượng đông đảo, là lao động chủ yếu của quá trình sản xuất nông nghiệp, đối tượng trực tiếp tiêu dùng phân bón, nhất là khi hiện nay nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều hướng đến người nông dân.
Ngoài ra, theo ông Đoàn việc ban hành Luật Thuế 71 là được căn cứ vào tình hình, điều kiện cụ thể phát triển ở thời điểm đó. Những quy định về thuế liên quan đến phân bón chịu sự chi phối bởi thực trạng phát triển của ngành nông nghiệp ở các giai đoạn khác nhau.
Việc đánh giá tác động của Luật Thuế 71 đến nhà nước, doanh nghiệp, người dân trong thời gian qua như thế nào cần phải được nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng với các con số minh chứng cụ thể, lập luận rõ ràng. Vấn đề này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải vào cuộc trên tinh thần khách quan, minh bạch nhằm cung cấp những luận cứ xác đáng, đảm bảo tính thuyết phục.