Chủ tài khoản qua đời, thân nhân từ chối nhận tiền, ngân hàng xử lý sao?

Theo chuyên gia pháp chế ngân hàng, số dư tài khoản sẽ bị treo vĩnh viễn tại ngân hàng trong trường hợp khách hàng qua đời nhưng người thừa kế không yêu cầu được nhận lại.

Không ít trường hợp khách hàng đột ngột qua đời nhưng người thân không biết số dư tài khoản thanh toán của người đã mất là bao nhiêu. Liệu ngân hàng có hoàn trả cho người thân hay không? Nếu yêu cầu ngân hàng hoàn trả thì thủ tục sẽ như thế nào?

Nhiều độc giả của VietNamNet bày tỏ sự quan tâm về việc số dư trong tài khoản thanh toán của khách hàng sẽ được ngân hàng xử lý ra sao trong trường hợp khách hàng không may qua đời.

Trao đổi với VietNamNet, Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc công ty Luật ANVI - cho hay, trường hợp khách hàng qua đời và có số dư trong tài khoản thanh toán, nếu người thừa kế theo luật không yêu cầu ngân hàng trả lại, hoặc không đáp ứng các thủ tục về quyền thừa kế, số tiền này sẽ “vĩnh viễn bị treo lại”.

“Với quy định về thời hiệu quyền sở hữu tài sản theo Bộ luật Dân sự, trong trường hợp này, số dư tài khoản sẽ vĩnh viễn bị treo trong tài khoản của khách hàng”, Luật sư Trương Thanh Đức nói.

Ảnh minh họa: Nam Khánh

Ảnh minh họa: Nam Khánh

Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015 về việc cho phép xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu quy định như sau: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Như vậy, căn cứ theo các quy định trên của pháp luật, để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cần phải đáp ứng các điều kiện như sau:

Việc chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng phải ngay tình, tức là người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật; việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một thời gian mà không có tranh chấp (chiếm hữu liên tục); việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm (chiếm hữu công khai); thời gian phải là 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản.

Do đó, việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đủ các điều kiện như nêu trên đương nhiên được công nhận.

Theo đại diện một ngân hàng thương mại cổ phần, thực tế tại ngân hàng hiện nay số dư tài khoản của khách hàng đã chết, tài khoản “ngủ quên” (tài khoản không phát sinh giao dịch chủ động trong thời hạn quy định của từng ngân hàng) vẫn được “treo” lại.

“Gọi là treo vĩnh viễn nhưng thực tế sẽ được trừ dần vào phí quản lý tài khoản cho đến khi hết tiền thì thôi”, đại diện ngân hàng thông tin.

Vị đại diện này cho rằng, bất cập hiện nay khi mở tài khoản là ngân hàng không yêu cầu khách hàng điền thông tin về người thân/người thừa kế, nên khi tài khoản “ngủ quên” trong thời gian dài ngân hàng cũng không thể liên hệ với người thân/người thừa kế.

“Ngoài ra, form (mẫu) mở tài khoản của các ngân hàng không có mục ghi thông tin báo cho người thừa kế/người thân... đồng thời, chưa có quy định trong trường hợp một khoảng thời gian nhất định (có thể là 6 tháng hoặc 1 năm) tài khoản ở trạng thái không hoạt động, ngân hàng buộc phải gửi tin nhắn/thư đảm bảo thông báo cho người thân về việc đóng tài khoản/phong tỏa tài khoản không hoạt động”, đại diện của một ngân hàng thương mại nói.

Theo quy định hiện nay của từng ngân hàng, tài khoản “ngủ quên” từ 6-48 tháng, nếu số dư bằng 0 hoặc thấp hơn số dư tối thiểu sẽ bị ngân hàng khóa lại.

Do vậy, dù tài khoản ở trạng thái “ngủ quên” nhưng vẫn còn số dư, ngân hàng sẽ tiếp tục duy trì tài khoản và trừ phí quản lý tài khoản theo định kỳ, phí duy trì tài khoản “ngủ” cho đến khi số dư bằng 0.

Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về “Thời hiệu thừa kế”:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này”.

Tuân Nguyễn

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/chu-tai-khoan-qua-doi-than-nhan-tu-choi-nhan-tien-ngan-hang-xu-ly-sao-2378126.html
Zalo