Chủ hộ kinh doanh phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc

Theo Nghị định mới, chủ hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc từ 1/7/2025; chủ hộ nộp thuế khoán sẽ tham gia từ 1/7/2029.

Mở rộng mạng lưới bảo hiểm tới khu vực kinh tế hộ gia đình

Mới đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 158/2025/NĐ-CP, có hiệu lực đồng thời với Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) số 41/2024/QH15 kể từ 1/7/2025, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nghị định dành riêng một điều khoản cho nhóm chủ hộ kinh doanh - đối tượng lần đầu xuất hiện trong Luật mới - nhằm mở rộng mạng lưới bảo hiểm tới khu vực kinh tế hộ gia đình.

Điểm m, Điều 2 Luật nêu rõ "chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ". Nghị định số 158 là văn bản cụ thể hóa quy định này, xác định rõ thời điểm và phạm vi áp dụng cho từng nhóm chủ hộ.

Các chủ hộ kinh doanh sẽ phải tham gia bảo hiểm xã hội

Các chủ hộ kinh doanh sẽ phải tham gia bảo hiểm xã hội

Theo khoản 2 Điều 4 Nghị định, chủ hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai sẽ thuộc diện bảo hiểm xã hội bắt buộc ngay khi Luật có hiệu lực, tức từ ngày 1/7/2025. Những chủ hộ còn lại - chủ yếu nộp thuế khoán, quy mô siêu nhỏ - sẽ tham gia bắt buộc sau bốn năm, kể từ 1/7/2029. Cách phân kỳ này nhằm bảo đảm cơ quan thu, cơ quan bảo hiểm và chính quyền địa phương có đủ thời gian hoàn thiện dữ liệu, chuẩn hóa quy trình quản lý.

Nghị định cũng phân định kênh đăng ký. Chủ hộ có thể nộp hồ sơ qua hộ kinh doanh, doanh nghiệp hoặc trực tiếp tại cơ quan bảo hiểm xã hội; thời hạn nộp là 30 ngày kể từ khi thuộc diện bắt buộc. Cơ quan bảo hiểm xã hội phải cấp sổ trong vòng năm ngày làm việc sau khi nhận đủ hồ sơ. Trường hợp chủ hộ đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị, người quản lý doanh nghiệp hay hợp tác xã, việc tham gia được xác định theo thứ tự ưu tiên của các nhóm lao động đã nêu trong Luật.

Nghị định số 158 khẳng định hai mốc năm 2025 và năm 2029 là thời hạn cuối cùng để chủ hộ kinh doanh hoàn thành nghĩa vụ bảo hiểm.

Điều 30 Luật BHXH giao Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ trì, phối hợp cơ quan thuế và UBND các cấp xác định, lập danh sách, hướng dẫn hồ sơ; đồng thời yêu cầu các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành (thuế, đăng ký doanh nghiệp…) kết nối, chia sẻ thông tin với BHXH để quản lý đối tượng. Thời hạn chi tiết cho các nghiệp vụ này sẽ do cơ quan quản lý nhà nước về BHXH (hiện là Bộ Nội vụ) quy định trong văn bản hướng dẫn.

Luật BHXH đặt mục tiêu mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội bắt buộc, tiến tới hệ thống an sinh đa tầng, trong đó khu vực hộ kinh doanh vốn chiếm tỷ trọng lớn về lao động tự làm sẽ được đưa vào lưới an sinh theo lộ trình phù hợp đối với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Việc quy định lộ trình hai giai đoạn giúp cơ quan chức năng có khoảng "đệm" để thử nghiệm kênh nộp trực tuyến, hoàn thiện mã số định danh chung và đào tạo đại lý thu, trước khi mở rộng sang nhóm thuế khoán.

Đến hết ngày 30/6/2029, mọi chủ hộ kinh doanh đăng ký kinh doanh sẽ phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo mức và phương thức được Luật và Nghị định hướng dẫn. Sau thời hạn này, trường hợp cố tình trốn đóng sẽ bị xử lý theo Điều 39 và 40 Luật BHXH về biện pháp xử lý vi phạm đóng, bao gồm truy thu, phạt hành chính và không xét khen thưởng.

Nghị định số 158 giao Bộ Nội vụ ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết mức đóng và phương thức thu đối với chủ hộ kinh doanh; đồng thời giao Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ trì xây dựng, cập nhật sổ BHXH điện tử và bảo đảm dữ liệu đồng bộ trước ngày 1/1/2026, phù hợp lộ trình chuyển đổi số toàn ngành.

Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc

Nghị định quy định tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật BHXH và được quy định chi tiết như sau:

Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 31 của Luật BHXH là tiền lương tháng, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác, trong đó:

Mức lương theo công việc hoặc chức danh tính theo thời gian (theo tháng) của công việc hoặc chức danh theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Lao động được thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

Các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương tại a chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ, được thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không bao gồm khoản phụ cấp lương phụ thuộc hoặc biến động theo năng suất lao động, quá trình làm việc và chất lượng thực hiện công việc của người lao động;

Các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương theo quy định, được thỏa thuận trong hợp đồng lao động và trả thường xuyên, ổn định trong mỗi kỳ trả lương; không bao gồm các khoản bổ sung khác phụ thuộc hoặc biến động theo năng suất lao động, quá trình làm việc và chất lượng thực hiện công việc của người lao động.

Nghị định nêu rõ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với đối tượng quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH là tiền lương tính trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.

Trường hợp trong hợp đồng lao động thỏa thuận lương theo giờ thì tiền lương tính trong tháng bằng tiền lương theo giờ nhân với số giờ làm việc trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.

Trường hợp trong hợp đồng lao động thỏa thuận lương theo ngày thì tiền lương tính trong tháng bằng tiền lương theo ngày nhân với số ngày làm việc trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.

Trường hợp trong hợp đồng lao động thỏa thuận lương theo tuần thì tiền lương tính trong tháng bằng tiền lương theo tuần nhân với số tuần làm việc trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.

Nghị định quy định tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với đối tượng quy định tại điểm k khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH là mức phụ cấp hằng tháng của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố. Trường hợp mức phụ cấp hằng tháng của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc bằng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 31 của Luật BHXH.

Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với đối tượng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH là tiền lương mà đối tượng này được hưởng theo quy định của pháp luật.

Trường hợp tiền lương ghi trong hợp đồng lao động và tiền lương trả cho người lao động bằng ngoại tệ thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở tiền lương bằng ngoại tệ được chuyển đổi sang Đồng Việt Nam theo tỷ giá bình quân của tỷ giá mua vào theo hình thức chuyển khoản của Đồng Việt Nam với ngoại tệ do 4 ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước công bố tại thời điểm cuối ngày của ngày 2/1 cho 6 tháng đầu năm và ngày 1/7 cho 6 tháng cuối năm; trường hợp các ngày này trùng vào ngày lễ, ngày nghỉ thì lấy tỷ giá của ngày làm việc tiếp theo liền kề.

ĐT

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/chu-ho-kinh-doanh-phai-tham-gia-bao-hiem-xa-hoi-bat-buoc-166519.html
Zalo