Chính phủ dự kiến vay 969.796 tỷ đồng trong năm 2026
Dự báo đến cuối năm 2026, dư nợ công ở mức khoảng 36-37% GDP, nợ Chính phủ ở mức khoảng 34-35% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức khoảng 32-33% GDP.

Dự kiến các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2025 nằm trong giới hạn trần và ngưỡng cảnh báo đã được Quốc hội quyết định.
Tổng nhu cầu vay của Chính phủ năm 2026 dự kiến ở mức 969.796 tỷ đồng, tăng khoảng 19% so với kế hoạch vay của Chính phủ năm 2025.
Đây là con số được nêu tại báo cáo về tình hình nợ công năm 2025, dự kiến năm 2026 được Chính phủ gửi Quốc hội.
Báo cáo nêu rõ, trên cơ sở ước thực hiện vay, trả nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia năm 2025, dự kiến các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2025 nằm trong giới hạn trần và ngưỡng cảnh báo đã được Quốc hội quyết định.
Cụ thể, nợ công/GDP ước thực hiện 35-36% (mục tiêu theo Nghị quyết 23/2021/QH15 là dưới 60%), nợ Chính phủ/GDP 33-34% (mục tiêu dưới 50%). Nợ nước ngoài của Quốc gia/GDP 31-32% (mục tiêu dưới 50%), Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/ tổng thu ngân sách nhà nước 19-20% (mục tiêu không quá 25%). Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia /tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ 6-7% (mục tiêu không qua 25%).
Về con số cụ thể, ước huy động vốn vay của Chính phủ cả năm 2025 đạt 802.684 tỷ đồng (98,5% kế hoạch được duyệt), trong đó vay cho cân đối ngân sách trung ương ước đạt 794.833 tỷ đồng, vay về cho vay lại ước đạt 7.851 tỷ đồng (khoảng 71,4% so với kế hoạch).
Kế hoạch trả nợ của Chính phủ tối đa 506.949 tỷ đồng. Ước thực hiện trả nợ của Chính phủ năm 2025 như kế hoạch được duyệt. Trong đó, trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 468.542 tỷ đồng, trả nợ của các dự án cho vay lại tối da 38.407 tỷ đồng.
Theo đánh giá của Chính phủ, công tác quản lý nợ công tiếp tục được thực hiện chủ động, chặt chẽ, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển, đồng thời đảm bảo các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2025 trong giới hạn trần và ngưỡng cảnh báo an toàn đã được Quốc hội phê duyệt, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, tăng khả năng chủ động ứng phó với những rủi ro phát sinh từ nguyên nhân bên ngoài và trong nội tại nền kinh tế.
Năm 2026, Chính phủ dự kiến tổng nhu cầu vay ở mức 969.796 tỷ đồng, tăng khoảng 19% so với kế hoạch vay của Chính phủ năm 2025. Trong đó, vay của ngân sách trung ương cho bù đắp bội chi và trả nợ gốc ở mức 959.705 tỷ đồng, tăng 19% so với dự toán năm 2025, còn lại là vay nước ngoài về cho vay lại. Nguồn huy dộng kết hợp linh hoạt các công cụ phát hành trái phiếu chính phủ, vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài và trong trường hợp cần thiết sẽ huy dộng từ các nguồn tài chính họp pháp khác.
Dự kiến nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ khoảng 534.740 tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp khoảng 493.405 tỷ đồng (tương đương khoảng 20-21% thu ngân sách nhà nước), trong đó trả nợ gốc khoảng 376.005 tỷ đồng, trả nợ lãi khoảng 117.400 tỷ đồng.
Nghĩa vụ trả nợ vay về cho vay lại khoảng 41.335 tỷ đồng (trả gốc khoảng 30.160 tỷ đồng, trả lãi khoảng 11.175 tỷ đồng).
Trong cơ cấu trả nợ trực tiếp của Chính phủ, trả nợ trong nước dự kiến chiếm khoảng 87%, phần còn lại là trả nợ vay ODA, ưu đãi nước ngoài. Nguồn trả nợ lãi được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước, nguồn trả nợ gốc được bố trí từ huy động vay mới (từ nguồn vay trong nước).
Dự báo dến cuối năm 2026, dư nợ công ở mức khoảng 36-37% GDP, nợ Chính phủ ở mức khoảng 34-35% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức khoảng 32-33% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 20-21%; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tống kim ngạch xuất khâu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm nghĩa vụ trả nợ gốc ngắn hạn dưới 12 tháng) dự kiến ở mức khoảng 6-7%.
Báo cáo cũng nêu các giải pháp tăng cường quản lý nợ công, trong đó có thúc đẩy giải ngân vốn vay, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, dặc biệt các dự án quan trọng của quốc gia. Tích cực mở rộng cơ sở thu, bố trí nguồn vượt thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước để giảm bội chi và tăng chi trả nợ gốc ngân sách nhà nước. Cùng với đó là tăng cường quản lý rủi ro nợ công và công khai minh bạch thông tin thông qua áp dụng các thông lệ tốt quốc tế và cải thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về quản lý nợ.