Chiến dịch Tây Nguyên - cuộc đấu trí quyết định

50 năm trước, thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là minh chứng sống động khẳng định cuộc đấu trí chiến dịch, chiến lược giữa ta và địch đã ngã ngũ-phần thắng hoàn toàn thuộc về ta. Đây là điểm khởi nguồn, là bước đà vững chắc để ta tiếp tục phát huy, phát triển thế và lực, nhất là tư duy chiến lược trong cuộc đọ trí, đọ sức với quân thù những ngày tiếp sau, nhằm nhanh chóng hoàn thành thắng lợi quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị giải phóng miền Nam trong năm 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tạo thế áp đảo về chiến lược

Bước vào Chiến cục Xuân-Hè 1975, Quân giải phóng miền Nam triển khai thế trận tiến công trên nhiều hướng chiến lược, trong đó Tây Nguyên được Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương chọn làm hướng tiến công chủ yếu trong giai đoạn đầu; Buôn Ma Thuột là điểm đánh trận then chốt quyết định.

Theo đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên: Tây Nguyên là chiến trường có dung lượng lớn, có điều kiện để tiến hành tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Quân địch ở đây lại yếu. Ta có thể thắng lớn và thắng nhanh. Giải phóng Tây Nguyên nhanh sẽ có điều kiện thuận lợi để tiến xuống đồng bằng ven biển miền Trung, chia cắt quân địch ở miền Nam Việt Nam ra làm đôi, tạo thời cơ chiến lược lớn để giành thắng lợi chiến lược lớn hơn.

Để bảo đảm chắc thắng cho trận mở đầu, trên cơ sở quyết tâm của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, từ ngày 17 đến 19-2-1975, Hội nghị quân chính mở rộng đã tập trung bàn phương án tác chiến. Hội nghị dành phần lớn thời gian thảo luận, phân tích đưa ra những kết luận chính xác về so sánh lực lượng ta-địch; việc sử dụng lực lượng, bố trí thế trận và vận dụng cách đánh hiệp đồng binh chủng sao cho phù hợp và hiệu quả.

Cụ thể: Lực lượng địch phòng thủ Tây Nguyên sau khi đã tăng cường vào thời điểm hội nghị họp, có cơ quan Bộ tư lệnh Quân đoàn 2; Sư đoàn 23 bộ binh; Sư đoàn 6 không quân; 7 liên đoàn biệt động; 36 tiểu đoàn bảo an; 4 thiết đoàn tăng thiết giáp; 8 tiểu đoàn, 7 đại đội, 25 trung đội pháo binh; được dàn trải phòng ngự trên khắp địa bàn Tây Nguyên, trong đó khu vực chủ yếu là thị xã Pleiku và Kon Tum. Khi bị tiến công, rất có thể địch sẽ tăng viện khoảng một sư đoàn thiếu đến một sư đoàn của Quân khu 2 và từ một lữ đoàn đến một sư đoàn thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược.

Nhằm tạo thế áp đảo, Bộ Tổng Tư lệnh điều động lực lượng cho chiến dịch, gồm: Bộ binh có 5 sư đoàn (10, 320, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn (25, 95B, 271, 95A); đặc công có Trung đoàn 198 và 2 tiểu đoàn (14, 27); pháo binh có 2 trung đoàn (40, 675); phòng không có 3 trung đoàn (232, 234, 593); Trung đoàn Thiết giáp 273; công binh có 2 trung đoàn (7, 575); toàn bộ LLVT địa phương các tỉnh Đắk Lắk, Kon Tum, Gia Lai.

Tuy còn có những hạn chế nhất định về trình độ tổ chức, chỉ huy và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn... nhưng lực lượng tham gia chiến dịch hầu hết là những đơn vị thiện chiến, có bề dày kinh nghiệm hoạt động ở Tây Nguyên; quan trọng hơn là có sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh (Đoàn A75 đứng đầu là Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam) và sự chi viện đắc lực của binh đoàn vận tải chiến lược; tinh thần và ý chí chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ từ bộ đội chủ lực đến LLVT địa phương đều tốt hơn bao giờ hết... là nhân tố “bảo đảm bằng vàng” cho thắng lợi của đòn quyết chiến mở đầu Xuân Ất Mão 1975.

 Bàn kế hoạch tác chiến tại Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên, tháng 3-1975. Ảnh tư liệu

Bàn kế hoạch tác chiến tại Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên, tháng 3-1975. Ảnh tư liệu

Dù vậy, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Chiến dịch vẫn xác định: “Cuộc đối chọi ở đây giữa ta và địch chủ yếu là cuộc đối chọi giữa các binh đoàn chủ lực tác chiến binh chủng hợp thành của hai bên. Vì vậy, để tiêu diệt bằng được tập đoàn chủ yếu của Quân đoàn 2 ngụy, cuộc chiến đấu của ta nhất định sẽ gay go, quyết liệt; ít nhất ta cũng phải thực hiện vài ba trận đánh lớn then chốt”.

Chọn mục tiêu tiến công

Do những điều kiện cụ thể của chiến trường nên vấn đề chọn mục tiêu tiến công Buôn Ma Thuột hay Kon Tum được nhiều cán bộ tác chiến, chỉ huy các cấp trong hội nghị quân chính (từ ngày 17 đến 19-2-1975) cân nhắc rất kỹ.

Một số ý kiến cho rằng nên chọn Kon Tum, vì trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, trên hướng Tây Nguyên, ta đã đánh thị xã Kon Tum, tuy chưa thành công nhưng đã hiểu địch, cơ bản nắm được địa bàn, có ít nhiều kinh nghiệm, lực lượng ta đã vào áp sát mục tiêu, đường cơ động đã chuẩn bị... và nhất là yếu tố bí mật được giữ vững; trong khi đó, Buôn Ma Thuột nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, việc nắm tình hình địch và địa bàn hạn chế, đường cơ động xa, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật khó khăn, yếu tố giữ bí mật không cao.

Ngược lại, một số ý kiến lại cho rằng: Buôn Ma Thuột nằm sâu trong vùng kiểm soát của địch, với khoảng 120.000 dân, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Tây Nguyên; là hang ổ đầu sỏ, ác ôn phản động của vùng này. Riêng về quân sự, thị xã Buôn Ma Thuột “đứng” ở ngã ba đường chiến lược 21 nối với Nha Trang và Đường số 14, phía Bắc đi Cheo Reo, Pleiku, phía Nam đi Gia Nghĩa, Đông Nam Bộ.

Tuy có hậu cứ Sư đoàn 23 ngụy nhưng về quân số ít hơn, thế bố phòng cũng không chặt chẽ so với Kon Tum. Đánh Buôn Ma Thuột, tuy công tác trinh sát, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, cơ động và triển khai lực lượng khó khăn, công tác bảo đảm bí mật và nghi binh đặt ra với yêu cầu cao... song ta vẫn có đủ khả năng khắc phục, bởi điều kiện khắc phục hoàn toàn do nỗ lực chủ quan của ta quyết định.

Với lực lượng được cài trong thế trận đánh chia cắt, khi ta tiến công Buôn Ma Thuột, địch khó có thể cơ động đến phản kích bằng đường bộ, mà chỉ là đường không, nhưng không thể đưa lực lượng lớn đến trong thời gian ngắn nên phản kích không thể thành công. Còn khi ta đã làm chủ Buôn Ma Thuột, bằng đường không, địch có đưa được lực lượng phản kích dù ở cỡ nào và có thể gây cho ta những khó khăn, tổn thất nhất định, song chúng cũng không thể ngăn cản nổi đà phát triển của ta ra các hướng. Đó là chưa kể, nếu dự kiến kế hoạch chu đáo, phát hiện kịp thời, chính xác mọi động thái của địch, nắm chắc lực lượng dự bị và sẵn sàng cơ động, ta đủ khả năng tiêu diệt nhanh gọn lực lượng phản kích của chúng...

Với những ý kiến phân tích khách quan, khoa học, Hội nghị quân chính mở rộng của Mặt trận Tây Nguyên hoàn toàn nhất trí với quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, chọn thị xã Buôn Ma Thuột là mục tiêu tiến công chủ yếu trong Chiến dịch Tây Nguyên. Đặc biệt, sau khi có quyết định lịch sử trên, quân ta đã tiến hành xây dựng quyết tâm và tưởng định kế hoạch tác chiến Chiến dịch tiến công Tây Nguyên; tổ chức tập bài, thảo luận các phương án tác chiến hết sức cụ thể, tỉ mỉ, nghiêm túc. Đây thực sự là một đóng góp rất quan trọng vào cuộc đấu trí sinh tử quyết định giữa ta và địch trong Chiến dịch Tây Nguyên.

Hiện thực hóa kế hoạch Chiến dịch Tây Nguyên-“sản phẩm của cuộc đấu trí” đầy mưu lược, sáng tạo và quyết đoán của những bộ óc mẫn tiệp và dạn dày kinh nghiệm trận mạc cả ở nơi chiến trường máu lửa và tại các cơ quan chiến lược ở hậu phương miền Bắc, sau thời gian khẩn trương làm công tác chuẩn bị mọi mặt, Chiến dịch tiến công giải phóng Tây Nguyên chính thức mở màn.

Để tạo điều kiện đánh trận then chốt quyết định tại Buôn Ma Thuột, ngày 4-3, ta đánh cắt các trục lộ 19 và 21, tạo thế cô lập Tây Nguyên với địa bàn đồng bằng Khu 5; tổ chức nghi binh lừa địch ở Pleiku, Kon Tum. Sau khi đánh chiếm Thuần Mẫn (ngày 8-3), cắt Đường 14 chiếm Đức Lập, núi Nưa (ngày 9-3), ta tập trung lực lượng ưu thế tiến công thị xã Buôn Ma Thuột (ngày 10-3).

Địch hoàn toàn bị bất ngờ cả về chiến dịch cũng như chiến lược. Từ Sài Gòn, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu ban hành quân lệnh “tử thủ Tây Nguyên bằng mọi giá”. Theo đó, Bộ tư lệnh Quân khu 2-Quân đoàn 2 địch vội điều 2 trung đoàn còn lại của Sư đoàn 23 và Tiểu đoàn 21 biệt động quân ra phản kích, quyết chiếm lại những mục tiêu đã mất, nhưng không thành công. Địch ở Buôn Ma Thuột bị thất thủ (ngày 11-3), Pleiku và Kon Tum rơi vào tình thế bị cô lập hoàn toàn.

Sau khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn, trên các hướng chiến trường phối hợp, ta đẩy mạnh tiến công uy hiếp địch ở đồng bằng Trị-Thiên, vùng giáp ranh Quảng Nam, Quảng Ngãi (giải phóng các huyện Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà, Trà Bồng, Bình Sơn, Sơn Tịnh...). Nhiều địa bàn chiến lược xung quanh Sài Gòn như Dầu Tiếng, suối Ông Hùng, Cầu Khởi ở phía Tây Bắc, Định Quán, Võ Đắc ở phía Đông Bắc, Xuân Lộc... bị ta uy hiếp mạnh. Địch cũng dồn lực lượng quy mô cấp sư đoàn tổ chức phản kích trên các trọng điểm chiến lược như Tiên Phước (Khu 5), Dầu Tiếng (Đông Nam Bộ)... nhưng đều bị thất bại.

Ngay khi hoàn thành trận then chốt Buôn Ma Thuột, ngày 11-3, Bộ Chính trị nhận định: Thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, Đường 19 và các hướng khác chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Không thể cứu vãn được Tây Nguyên, ngày 14-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu bay ra Cam Ranh, triệu tập gấp Bộ chỉ huy Quân khu 2-Quân đoàn 2 để bàn bạc, rồi xuống lệnh: Rút khỏi Pleiku, Kon Tum theo Đường số 7, giữ đồng bằng Khu 5.

Đây cũng là ý kiến chỉ đạo của Martin-Đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam, rằng: Rút quân khỏi Pleiku, Kon Tum nhằm bảo toàn lực lượng còn lại, sau đó tập trung lực lượng diệt một bộ phận chủ lực ta rồi sẽ lấy lại vùng đã mất. Thực hiện ý đồ đó, chúng toan tính phải nhanh chóng mở ngay ít nhất một cuộc hành quân trên hướng Quân khu 3 (ở địa bàn Tây Ninh), quyết giành thắng lợi chính trị để tranh thủ dư luận và "thuyết phục" chính quyền Tổng thống Gerald Ford viện trợ.

Tuy phát hiện mưu đồ rút quân khỏi Pleiku, Kon Tum của địch hơi muộn, song ngày 16-3-1975, quân ta đã chạy đua với thời gian, cắt rừng, băng suối khẩn trương truy kích quân địch trên Đường số 7 và lập thế chốt chặn ở Củng Sơn. Ngày 24-3-1975, cuộc truy kích hoàn thành thắng lợi; hầu như toàn bộ quân địch rút chạy bị tiêu diệt, bị bắt, chỉ một bộ phận chạy thoát. Tây Nguyên được giải phóng, đồng bằng Khu 5 trực tiếp bị uy hiếp mạnh, thế bị chia cắt chiến lược đối với địch đã quá rõ ràng. “Sự kiện Tây Nguyên” đã tạo nên chấn động sâu sắc đến cục diện chung trên toàn chiến trường, đặt ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn đến trước bờ vực tan rã.

Trước tình cảnh “sống còn chỉ trong gang tấc”, địch một lần nữa điều chỉnh thế trận chiến lược bằng cách: Rút quân ở Quảng Trị đưa về giữ tuyến phòng thủ Mỹ Chánh; đưa sư đoàn thủy quân lục chiến từ Sài Gòn ra tăng cường cho Đà Nẵng thay cho sư đoàn dù từ Đà Nẵng về Sài Gòn để sẵn sàng cơ động hòng đối phó với những tình huống nguy cấp đã cận kề. Tình trạng rối loạn như một “hội chứng truyền nhiễm” lây lan phi mã trong nội bộ ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn vào thời điểm này.

NGUYỄN HUY THỤC

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/50-nam-dai-thang-mua-xuan-1975/chien-dich-tay-nguyen-cuoc-dau-tri-quyet-dinh-818831
Zalo