Chênh lệch lớn về lương của quản lý doanh nghiệp trong các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau
Hiện đang có sự chênh lệch khá lớn tiền lương, nhất là tiền lương của người quản lý giữa các doanh nghiệp ở ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Ngành sản xuất, công nghiệp, tiền lương bình quân của người quản lý khoảng 40 - 50 triệu đồng/tháng, trong khi ở các ngành ngân hàng tài chính khoảng 100- 120 triệu đồng/tháng...
Nội dung này được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề cập khi xây dựng dự thảo Nghị định quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong doanh nghiệp Nhà nước.
MỨC TIỀN LƯƠNG TĂNG ỔN ĐỊNH QUA CÁC NĂM
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 51/2016/NĐ-CP, số 52/2016/NĐ-CP, số 21/2024/NĐ-CP quy định về tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, và Nghị định số 53/2016/NĐ-CP đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước.
Qua tổng kết, đánh giá của các Bộ, ngành địa phương và doanh nghiệp, cho thấy, nội dung quản lý lao động, tiền lương theo quy định tại các Nghị định của Chính phủ nêu trên đã bảo đảm quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong việc quyết định thang, bảng lương, quỹ tiền lương theo nguyên tắc năng suất lao động, lợi nhuận tăng thì tiền lương tăng và ngược lại.
Đồng thời, thực hiện trả lương cho người lao động theo kết quả, hiệu quả công việc (không hạn chế mức tối đa đối với lao động giỏi, trình độ cao), tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thiết lập thang giá trị lao động, tiền lương ổn định, cải thiện 8 - 10%/năm.
Tuy nhiên, cơ chế tiền lương, tiền thưởng hiện hành đang bộc lộ những hạn chế, bất cập như: (i) Có sự phân biệt giữa doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước.
(ii) Chính sách tiền lương quy định nguyên tắc chung gắn tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả, nhưng chưa có sự phân biệt rõ theo quy mô năng suất và hiệu quả, giữa doanh nghiệp dẫn đến có chênh lệch khá lớn tiền lương, nhất là tiền lương của người quản lý giữa các doanh nghiệp ở ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
Đơn cử như ngành sản xuất, công nghiệp, tiền lương bình quân của người quản lý khoảng 40 - 50 triệu đồng/tháng, trong khi ở các ngành viễn thông khoảng 60 - 90 triệu đồng/tháng, ngành ngân hàng tài chính khoảng 100- 120 triệu đồng/tháng, có doanh nghiệp hiệu quả cao lên đến 200 triệu đồng/tháng.
(iii) Tiền lương của người quản lý mặc dù đã được nâng lên nhưng vẫn còn thấp so với các chức danh quản lý tương đương trên thị trường, nên chưa tạo được động lực cho những người quản lý giỏi.
Một số doanh nghiệp trả lương cho người quản lý 130 - 150 triệu đồng/tháng. Ngân hàng thương mại trả 150 - 200 triệu đồng/tháng, có trường hợp trả 250 - 300 triệu đồng/tháng. Ngoài ra còn được hưởng tiền thưởng theo hiệu quả sản xuất, kinh doanh bằng 30 - 50% tiền lương.
(iv) Thẩm quyền đánh giá, quyết định mức lương của người quản lý chưa phù hợp, trong đó đại diện chủ sở hữu (Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên) vẫn hưởng lương chung với Ban giám đốc, do doanh nghiệp chi trả, làm giảm tính khách quan, độc lập và hiệu quả trong giám sát, chỉ đạo doanh nghiệp...
Vì vậy, để giải quyết những bất cập, hạn chế trong cơ chế tiền lương hiện hành, đồng thời triển khai thực hiện đầy đủ nội dung cải cách tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất một số nội dung mới về quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong doanh nghiệp Nhà nước.
TIỀN LƯƠNG GẮN VỚI NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG VÀ LỢI NHUẬN
Về tiền lương, tiền thưởng của người lao động: Doanh nghiệp được lựa chọn xác định quỹ lương thông qua mức tiền lương bình quân, hoặc đơn giá tiền lương ổn định trong 2 hoặc 3 năm phù hợp với nhiệm vụ, điều kiện sản xuất, kinh doanh, ngành nghề, tính chất hoạt động của doanh nghiệp để đảm bảo sự linh hoạt, ổn định.
Tiền lương được quy định gắn với năng suất lao động và lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoàn thành vượt kế hoạch, thì được bổ sung tối đa 2 tháng tiền lương vào quỹ tiền lương.
Bên cạnh đó, cho phép tính thêm tiền lương đối với lao động đặc thù, lao động chuyên môn kỹ thuật cao trong các lĩnh vực mũi nhọn thuộc Danh mục công nghệ cao theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Tiền thưởng được trích từ lợi nhuận sau thuế, tối đa 3 tháng tiền lương cho quỹ khen thưởng, phúc lợi, gắn với tiêu chí xếp loại doanh nghiệp A, B, C.
Về xác định tiền lương, tiền thưởng đối với trường hợp đặc thù, quy định việc loại trừ các yếu tố làm giảm năng suất, lợi nhuận khi xác định tiền lương, do doanh nghiệp làm nhiệm vụ bình ổn thị trường theo chỉ đạo của Nhà nước, hoặc kinh doanh những mặt hàng thuộc danh mục bình ổn thị trường, Nhà nước quản lý giá.
Đồng thời, quy định các chỉ tiêu phù hợp đối với doanh nghiệp thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích, hoặc doanh nghiệp hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận khi xác định tiền lương.
Đối với Ban điều hành, quy định hưởng tiền lương, tiền thưởng tính chung trong quỹ tiền lương, tiền thưởng với người lao động, và giao cho Hội đồng thành viên đánh giá, quyết định mức lương cụ thể theo mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Có khống chế mức hưởng tối đa của Tổng giám đốc không vượt quá 10 lần so với mức lương bình quân chung của người lao động.
Với dự kiến quy định này, thì mức tiền lương bình quân của Tổng giám đốc do doanh nghiệp phân phối theo quy chế trả lương, tối đa có thể đạt khoảng 100 - 120 triệu đồng/tháng. Riêng ở Tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn, tối đa có thể đạt khoảng 170 - 180 triệu đồng.
Mức tiền lương tối đa này bảo đảm bao trùm mức lương hiện đang trả thực tế, tương quan với mức lương tối đa của Chủ tịch Hội đồng thành viên cùng doanh nghiệp theo dự thảo Nghị định này (khoảng 160 triệu đồng), và cũng bước đầu tiệm cận gần hơn với mặt bằng tiền lương trên thị trường.
Về tiền lương, thù lao, tiền thưởng của Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên, quy định Thành viên Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên:
Mức lương cơ bản gồm 8 mức, chia theo 2 nhóm doanh nghiệp. Nhóm I: áp dụng đối với tổng công ty, tập đoàn kinh tế. Nhóm II: áp dụng đối với doanh nghiệp độc lập.
Mức lương cơ bản cao nhất của Chủ tịch (mức 1) là 80 triệu đồng. Mức lương này trong Đề án khi báo cáo Trung ương dự kiến thực hiện từ năm 2021 là 70 triệu đồng/tháng. Đến nay, tính theo mức tăng chỉ số giá tiêu dùng dự kiến áp dụng từ ngày 1/1/2025 khoảng 80 triệu đồng. Mức thấp nhất của Kế toán trưởng (mức 8) là 25 triệu đồng/tháng.
Mức lương cơ bản được quy định gắn với 3 chỉ tiêu vốn, doanh thu, lợi nhuận chia theo ngành, lĩnh vực. Hằng năm, doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh kế hoạch để xác định mức lương cơ bản được hưởng, theo nguyên tắc phải bảo đảm đủ 3 chỉ tiêu tương ứng với mức lương nào, thì được áp dụng mức lương cơ bản đó.
Hệ số tăng thêm tối đa không quá 1 lần để tính mức tiền lương được hưởng gắn với lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn.
Theo đó, doanh nghiệp có lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hơn thực hiện của năm trước, thì tiền lương kế hoạch tối đa bằng 2 lần mức lương cơ bản (mức lương của Chủ tịch cao nhất tối đa có thể đạt được 160 triệu đồng/tháng), và giao cho chủ sở hữu đánh giá, quyết định mức lương cụ thể của từng người.
Quy định trích thưởng từ lợi nhuận sau thuế cho Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên theo phân loại doanh nghiệp A, B, C tối đa 2 tháng, cao hơn so với quy định hiện hành (1,5 tháng lương).