Chất Đảng, chất lính, chất đời của người anh hùng
Vừa chớm 18 tuổi xung phong nhập ngũ, 22 tuổi được kết nạp Đảng, 24 tuổi được tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân, hơn nửa thế kỷ qua, dù ở cấp bậc, cương vị nào và nay trở về đời thường, trong trái tim ông Nguyễn Vi Hợi luôn sắt son lời thề 'Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng/ Tấm lòng son chói sáng nghìn thu'.
1. Vừa thoáng nghe tên Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Vi Hợi cùng tham gia đoàn công tác của tòa soạn vào TP Pleiku, tỉnh Gia Lai tham dự Tọa đàm “Chiến thắng Tây Nguyên-Mở đầu cho toàn thắng” do Báo Quân đội nhân dân phối hợp với Quân đoàn 34 tổ chức vào dịp cuối tháng 2-2025, tôi cảm thấy cái tên khá thân quen. “Hình như mình gặp chú Hợi ở đâu rồi thì phải?”, tôi tự hỏi và tìm về ký ức thời trẻ vào cuối những năm 90 của thế kỷ 20, khi tôi đang công tác ở khối cơ quan Quân khu 2.
Hóa ra người cùng đơn vị chứ đâu xa xôi gì. Khi tôi là một anh Thượng úy, thì ông đã là sĩ quan cao cấp, mang quân hàm Thượng tá và được nhiều người biết đến. Tôi là Trợ lý Thanh niên thuộc Phòng Chính trị, còn ông là Trợ lý thuộc Phòng Tác chiến, đều của Bộ Tham mưu Quân khu 2. Hai chức danh, hai công việc hầu như không liên quan đến nhau, thế nên hai chú cháu ít có cơ hội gần nhau.
Tưởng chừng thời gian khuất lấp nhiều thứ, nhưng nhờ trái đất quay tròn mà sau một phần tư thế kỷ, tôi có cơ may gặp lại và đi cùng ông trong hành trình trở về mảnh đất Tây Nguyên-nơi chiến trường xưa ông từng cầm súng chiến đấu. Mấy ngày cùng ăn ở, trò chuyện với ông, tôi biết thêm nhiều điều về người anh hùng một thời dũng cảm xông pha trận mạc và một lòng trung trinh với Đảng, trọn nghĩa nước non, vẹn tình đồng đội.

Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Vi Hợi trò chuyện với sĩ quan trẻ Sư đoàn 320, Quân đoàn 34 (tháng 2-2025). Ảnh: PHÚC NỘI
2. Kém tuổi ông gần hai con giáp, tôi gọi ông bằng chú, nhưng ngay câu đầu tiên, ông gọi tôi là “thầy”. Tôi hơi chột dạ và nhã nhặn đề nghị ông không nên gọi như vậy, thì ông nở nụ cười hiền: “Tớ là Đại tá, cậu cũng là Đại tá, mà lại là Đại tá-nhà báo thì văn hay chữ tốt nên gọi là thầy cũng ô-kê chứ nhỉ!”. Biết ông khéo tạo không khí vui vẻ, tôi cũng hào hứng: “Chú là Đại tá lừng danh gấp bội lần, từng là lính chiến vào sinh ra tử, gan vàng dạ sắt, võ công cao cường, chiến đấu dũng mãnh và lập chiến công oanh liệt nên được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân ở tuổi 24. Những người anh hùng thời chiến như những tượng đài lịch sử tỏa sáng đến thế hệ mai sau”.
Ông cười, bảo: "Thầy đã động viên người lính già như thế thì tôi càng phải gắng sống khỏe, sống hữu ích hơn cho đời". Sống cạnh anh hùng Nguyễn Vi Hợi, tôi cảm nhận trong con người ông toát ra một năng lượng tích cực, dễ gần, thân thiện, nói năng vui vẻ, khiêm nhường. Khi tiếp xúc với một vị Thiếu tướng kém ông gần hai chục tuổi, ông vẫn một gọi “thủ trưởng”, hai thưa “thủ trưởng” và xưng mình là “em” hết sức nhã nhặn, tự nhiên. Tôi hỏi sao chú lại xưng hô như vậy, thì ông bảo rằng, đã mang quân hàm tướng thì đều xứng đáng là cấp trên, là thủ trưởng của mình, dù vị tướng ít tuổi đời hơn mình. Bởi tướng quân là tinh tú, tinh hoa của Quân đội, là linh khí của văn hóa-nghệ thuật quân sự Việt Nam, do vậy, trân trọng gọi thủ trưởng cũng là một cách giữ gìn, tôn vinh vẻ đẹp oai phong của các tướng quân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Khi anh hùng Nguyễn Vi Hợi chia sẻ như vậy, tôi thêm hiểu lý do sâu xa vì sao ông khiêm cung gọi nhiều người là thầy. Trước khi về hưu năm 2002, ông từng giữ chức Phó hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu 2. Thời đó là lãnh đạo nhà trường, trong xưng hô, trò chuyện với cán bộ, giảng viên của trường, ông luôn gọi họ là thầy với hàm ý trân quý những người giàu tri thức văn hóa trong môi trường sư phạm. Theo lời ông tâm sự, xét đến cùng, trong cuộc sống này, ai cũng có điều giỏi giang hơn mình về một góc độ, phương diện nào đó. Cái hơn đó chính là phẩm chất người thầy mà mình phải trân trọng, học hỏi.
3. Tôi biết anh hùng Nguyễn Vi Hợi nói thật lòng mình, chứ không phải những lời sáo rỗng. Ngay cả cách nói chuyện của ông về một thời trận mạc, lẽ thường người ta hay nói về những dấu ấn, thành tích, chiến công của mình trong chiến đấu, nhưng ông lại thành tâm nói về những hành động quả cảm và sự hy sinh vô bờ bến của những người một thời cùng chiến hào với mình.
Khi được mời lên phát biểu ý kiến tại Tọa đàm “Chiến thắng Tây Nguyên-Mở đầu cho toàn thắng” tại Hội trường Quân đoàn 34, mọi người chú tâm lắng nghe những lời kể chuyện chiến đấu trực tiếp từ một người hùng bước ra từ trận mạc. Ở tuổi 73, giọng ông vanh vách, mạch lạc: “Khi tôi là Tiểu đội trưởng Tiểu đội 7 chiến đấu đánh địch ở Đường số 7-Cheo Reo, tôi nhớ mãi hình ảnh chỉ huy quyết đoán, mau lẹ của Trung đội trưởng Đàm Việt Hùng. Anh Hùng quê ở Cao Bằng, cùng chiến đấu với chúng tôi. Sau kháng chiến chống Mỹ, anh Hùng tiếp tục sang tham gia chiến đấu ở Campuchia với tư cách là cán bộ đại đội. Khi chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, anh lại hành quân lên đường chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc và hy sinh ngày 25-2-1979, tại Cao Bằng, khi đang là cán bộ tiểu đoàn. Anh Đàm Việt Hùng và nhiều đồng đội khác đã chiến đấu, hy sinh, máu đào của các anh thấm vào tấm huân chương đỏ rực của những cựu chiến binh ngày nay. Ngay cả tấm huy hiệu anh hùng của tôi hôm nay cũng do máu đào của các anh tô thắm và tôi là người may mắn được đeo trên ngực, chứ chiến công của tôi so với các đồng đội đã hy sinh đâu thấm tháp gì”. Lời bộc bạch của anh hùng Nguyễn Vi Hợi khiến không gian hội trường như lặng đi vì xúc động.
Trong khoảng dăm bảy phút kể chuyện, hầu như ông không nói về mình, mà chỉ nói về đồng đội, về bà con nhân dân-những người mà ông gọi là “ân nhân” suốt đời trả ơn, trả nghĩa không bao giờ hết. Có lẽ vì thế, ngay buổi đầu tiên trở lại TP Pleiku, nhớ cảnh xưa, người cũ khiến tâm trạng ông bồi hồi, đứng ngồi không yên. Vừa ăn cơm trưa xong ở Nhà khách Quân đoàn 34, ông nghỉ ngơi chốc lát rồi chân ướt chân ráo đến thăm, thắp hương tại Nhà tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Sư đoàn 320. Trong tiếng nhạc "Hồn tử sĩ" trầm buồn, đôi tay ông run run khi cầm ba nén nhang thắp trên đài hương. Trước hàng bia khắc tên các liệt sĩ trong đền thờ, đôi mắt người cựu chiến binh bỗng đỏ hoe trước những dòng tên đồng đội mà trong số đó có nhiều người bạn chiến đấu của ông “mãi mãi tuổi 20”...
4. Tâm sự với tôi, rất nhiều lần ông nói đến hai từ “may mắn”. May mắn vì ở tuổi 18, ông sớm được tôi rèn, thử thách trong môi trường quân ngũ; may mắn vì ở tuổi 22, ông được ánh sáng của Đảng soi đường khi vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng đúng dịp kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1974); may mắn nhờ có đồng chí, đồng đội cùng đơn vị và bà con nhân dân nơi ông từng đóng quân, trú quân, hành quân đã chở che, đùm bọc, giúp đỡ và là điểm tựa tinh thần, vật chất để ông chiến đấu, lập công và được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân ngày 15-1-1976.
Tôi biết ông khiêm tốn nói vậy, chứ nhìn bảng vàng thành tích của ông rất đáng nể phục. Hồ sơ đơn vị xác nhận: Từ năm 1972 đến tháng 4-1975, đồng chí Nguyễn Vi Hợi đã chỉ huy đơn vị đánh 14 trận, diệt hơn 200 tên địch, bắt gần 300 tên, trong đó có 1 chuẩn tướng ngụy; riêng đồng chí đã tiêu diệt 43 tên địch, bắt 120 tên, bắn cháy 6 xe tăng, xe bọc thép, thu 8 chiếc khác, được tặng 1 Huân chương Quân công, 2 Huân chương Chiến công, 4 lần được tặng danh hiệu dũng sĩ.
Trong suốt hành trình chiến đấu, từ khi rời quê hương Phú Khê (Cẩm Khê, Phú Thọ) lên đường nhập ngũ (năm 1970) đến những trận đánh giáp mặt với kẻ thù tại Đường số 7-Cheo Reo, sân bay Đông Tác (Phú Yên), chốt cầu Bông (Tây Bắc Sài Gòn) trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, rồi sau này tiếp tục hành quân lên trực tiếp chỉ huy chiến đấu tại mặt trận Hoàng Liên Sơn và mặt trận Vị Xuyên đến năm 1989, có tới hai phần ba cuộc đời quân ngũ của ông gắn liền với chiến trận, chiến trường.
Sau 32 năm quân ngũ, năm 2002, lưu luyến chia tay môi trường Quân đội khi vừa tròn tuổi 50, ông suy nghĩ giản dị: Mình về sớm hơn so với tuổi quy định, có chút thiệt thòi về quyền lợi cá nhân nhưng tạo cơ hội cho anh em cán bộ trẻ giỏi giang hơn thay vị trí công tác của mình để gánh vác việc chung. Thấm thía lời tiền nhân đúc kết “tri túc thường lạc” (biết đủ là vui), từ khi trở về đời thường đến nay, người cựu chiến binh, người đảng viên Nguyễn Vi Hợi luôn hòa vào cuộc sống bình dị của bà con lối phố và cùng chia sẻ niềm vui nỗi buồn, đồng cam cộng khổ với nhân quần, với đồng chí, đồng đội năm xưa. Tháng 12-2024, sau khi vinh dự nhận Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, ông cầm cây ghi ta vừa đánh đàn, vừa tự hào ngâm nga: “Đảng là cuộc sống của tôi, mãi mãi đi theo Người/ Từ thuở còn thơ, đời tôi chưa quen sóng gió/ Đảng đã cho tôi lẽ sống, niềm tin...”.
“Từng là Trợ lý, cấp dưới của thủ trưởng Nguyễn Vi Hợi, nay là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Liên Bảo, tôi cảm nhận ông là một hội viên mẫu mực, tận tâm, trách nhiệm với tổ chức hội và đồng chí, đồng đội. Ông sống cương trực, khảng khái, hào hiệp mà cũng rất khiêm nhường, nhân nghĩa, thủy chung. Chất Đảng trung kiên, chất lính can trường, chất đời lạc quan đã tạo nên nhân cách Nguyễn Vi Hợi đáng quý trọng”. (Đại tá Lương Ngọc Oanh, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Liên Bảo, TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc)
Ghi chép của THIỆN VĂN