Cần sớm ban hành bản đồ số ngành công nghiệp văn hóa

Theo TS. Nguyễn Thu Hạnh, bản đồ số ngành công nghiệp văn hóa là nền tảng quan trọng để xúc tiến đầu tư, phát triển sản phẩm và quản trị rủi ro.

Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) vừa có báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ quý III và nhiệm vụ trọng tâm quý IV năm 2025. Một trong những điểm chú ý tại báo cáo này là Bộ VHTTDL đang tiếp tục xây dựng Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam; Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu và lập bản đồ số các ngành công nghiệp văn hóa.

Việc hoàn thiện Đề án xây dựng cơ sở dự liệu và lập bản đồ số về các ngành công nghiệp văn hóa và Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định cũng được Bộ VHTTDL đưa vào nhiệm vụ trọng tâm trong quý IV năm 2025.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với TS, Kiến trúc sư Nguyễn Thu Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam (S-DCI).

TS, Kiến trúc sư Nguyễn Thu Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam (S-DCI).

TS, Kiến trúc sư Nguyễn Thu Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam (S-DCI).

- Thưa TS. Nguyễn Thu Hạnh, công nghiệp văn hóa vẫn được xem là một lĩnh vực kinh tế mới mẻ. Hiện nay, Bộ VHTTDL đang tiếp tục xây dựng Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam và Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu và lập bản đồ số các ngành công nghiệp văn hóa. Các chỉ số này là gì và sẽ có tác động như thế nào đối với việc phát triển công nghiệp văn hóa trong thời gian sắp tới?

TS, Kiến trúc sư - Nguyễn Thu Hạnh: Các chỉ số này bao gồm: chỉ số quy mô và kinh tế, chỉ số việc làm và lao động, chỉ số đổi mới và năng lực sáng tạo, chỉ số hạ tầng và kỹ thuật số, chỉ số chất lượng và tiếp cận, chỉ số tác động liên ngành…

Tác động của các chỉ số này đối với phát triển công nghiệp văn hóa thể hiện rõ ở hai khía cạnh chính:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả quản lý và thúc đẩy kinh tế sáng tạo. Việc thống kê chính xác giúp đo lường quy mô, cơ cấu lao động, mức đóng góp vào GDP, giá trị xuất khẩu, khả năng thu hút đầu tư, tạo việc làm và mối liên kết giữa 12 ngành trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Đây là cơ sở quan trọng để hoạch định chính sách phát triển và phân bổ nguồn lực hợp lý.

Thứ hai, hỗ trợ quá trình chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Một nền tảng dữ liệu chuẩn, đồng bộ sẽ là điều kiện tiên quyết để ứng dụng các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) vào phân tích, dự báo xu hướng, cũng như thiết kế các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp văn hóa, góp phần hình thành hệ sinh thái sáng tạo bền vững.

Mặt khác, bản đồ số và bộ chỉ tiêu thống kê các ngành công nghiệp văn hóa hoàn thành sớm sẽ giúp thu thập dữ liệu đồng bộ trước khi mất dấu các doanh nghiệp nhỏ và sáng kiến địa phương (các startup văn hóa dễ biến động, đảm bảo tính kịp thời cho các chính sách (hỗ trợ doanh nghiệp, xúc tiến xuất khẩu…), tránh “lệch” số liệu khi các quyết định đầu tư chiến lược đang được soạn thảo. Đồng thời, tạo nền tảng liên kết dữ liệu liên ngành theo xu hướng quốc tế.

- Việc xây dựng đề án cơ sở dữ liệu, lập bản đồ số về các ngành công nghiệp văn hóa và Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa cần thiết ra sao trong bối cảnh hiện tại, thưa bà?

Bản đồ số (digital mapping) ngành công nghiệp văn hóa là quá trình thu thập chuẩn hóa dữ liệu không gian và phi không gian về các thành tố của ngành văn hóa (doanh nghiệp, sản phẩm, cơ sở di sản, cơ sở sáng tạo, sự kiện, chuỗi cung ứng, hệ sinh thái sáng tạo…) lên nền tảng số để: hiển thị vị trí địa lý (GIS) và mối liên kết không gian; liên kết dữ liệu hành chính, kinh tế, xã hội (doanh thu, số lao động, loại hình hoạt động, tiêu chí chất lượng, ngày đăng ký, quyền sở hữu trí tuệ…); cho phép truy vấn, phân tích (analytics), báo cáo và cập nhật theo thời gian thực hoặc theo chu kỳ.

Bản đồ số ngành công nghiệp văn hóa là nền tảng quan trọng để phân tích và hoạch định chính sách, xúc tiến đầu tư, phát triển sản phẩm và quản trị rủi ro. Do đó, rất cần thiết và cần sớm được ban hành để phục vụ cho việc xây dựng chiến lược ngành công nghiệp văn hóa giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn 2035.

Việc chậm trễ sẽ làm mất cơ hội đo đếm chính xác, bỏ lỡ các doanh nghiệp nhỏ và làm giảm hiệu quả phối hợp liên ngành…

- Theo bà, việc xây dựng bản đồ số ngành công nghiệp văn hóa, bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam cần đảm bảo những tiêu chí và nguyên tắc nào?

Trên thực tế, dữ liệu về công nghiệp văn hóa hiện vẫn phân tán, thiếu chuẩn hóa và khó so sánh. Nhiều nguồn thông tin đang được lưu trữ rời rạc ở các địa phương và cơ quan khác nhau, dẫn đến thiếu tính liên thông và đồng bộ. Việc chưa xây dựng được một khung dữ liệu thống nhất và chuẩn chung khiến công tác thống kê, phân tích và đánh giá hiệu quả ngành trở nên manh mún, làm suy giảm năng lực hoạch định chính sách và ra quyết định chiến lược.

Vì vậy, việc lập bản đồ số về các ngành công nghiệp văn hóa và Bộ chỉ tiêu thống kê cần đảm bảo những nguyên tắc và tiêu chí sau:

Chuẩn hóa và tương thích quốc tế: áp dụng tiêu chuẩn quốc tế (UNESCO FCS), phân loại rõ ràng các ngành nghề của công nghiệp văn hóa để so sánh quốc tế.

Liên kết dữ liệu và tính liên ngành: thiết kế theo mô-đun để kết nối với dữ liệu du lịch, giáo dục, thương mại, thuế, bảo tàng.

Dữ liệu không gian (GIS) + meta-data đầy đủ: mọi đối tượng nên có tọa độ, thuộc tính mô tả, nguồn, thời gian cập nhật.

Bảo mật và quyền riêng tư: tuân thủ luật dữ liệu cá nhân, phân quyền truy cập; công bố số liệu tổng hợp, vô danh hóa khi cần.

Mở và có thể truy cập (open data) nhưng phân tầng: công bố chỉ số tổng hợp cho công chúng; giữ lớp dữ liệu nhạy cảm cho quản lý nội bộ.

Chu kỳ cập nhật và minh bạch: quy định chu kỳ cập nhật (hằng quý, 6 tháng, hàng năm) và phương pháp thu thập.

Tính tham gia và phản biện của địa phương: mời cộng đồng sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ, địa phương tham gia xác minh dữ liệu để tránh bỏ sót.

Khả năng mở rộng và kỹ thuật: kiến trúc hỗ trợ Big Data, API, AI/ML để phân tích nâng cao.

- Trân trọng cảm ơn bà!

Theo TS. Nguyễn Thu Hạnh, bản đồ số ngành công nghiệp văn hóa là nền tảng quan trọng để hoạch định chính sách, xúc tiến đầu tư, phát triển sản phẩm và quản trị rủi ro trong ngành văn hóa. Việc sớm ban hành và triển khai là hết sức cần thiết nhằm phục vụ cho Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn 2045, tránh bỏ lỡ thời điểm “vàng” để đo lường chính xác, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, và tăng cường phối hợp liên ngành.

Hoàng Chiến

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/can-som-ban-hanh-ban-do-so-nganh-cong-nghiep-van-hoa-425752.html