Cần gần 11.000 tỷ đồng để phát triển cảng biển Quảng Ngãi đến 2030
Theo Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển Quảng Ngãi thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, vừa được Bộ trưởng Bộ Xây dựng phê duyệt tại Quyết định số 311/QĐ-BXD ngày 25/3/2025, tổng nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 khoảng 10.830 tỷ đồng, gồm vốn đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng khoảng 2.870 tỷ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng 7.960 tỷ đồng...

Mục tiêu đến năm 2030, cảng Dung Quất đạt sản lượng hàng hóa thông qua từ 38 triệu - 38,8 triệu tấn. Ảnh internet
Cảng biển Quảng Ngãi gồm khu bến Dung Quất, bến cảng Sa Kỳ, bến cảng Mỹ Á, bến cảng Bến Đình (đảo Lý Sơn) và các bến cảng tiềm năng khác theo quy hoạch khu kinh tế Dung Quất phục vụ giao lưu giữa đất liền với đảo Lý Sơn và phát triển kinh tế xã hội địa phương; các khu neo đậu, khu chuyển tải, tránh bão.
Trước đó, tại tờ trình dự thảo quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển Quảng Ngãi thời kỳ 2021 - 2023, tầm nhìn đến 2050 gửi Bộ Xây dựng, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam đã cho biết, tốc độ tăng trưởng hàng hóa qua cảng biển Quảng Ngãi bình quân giai đoạn 2020 - 2024 vào khoảng 11,10%/năm.
Riêng trong năm 2024, khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Quảng Ngãi ước đạt 45,75 triệu tấn và chủ yếu là hàng khô với 33,39 triệu tấn, chiếm khoảng 72,97% thị phần; còn lại là hàng lỏng. Tính đến nay, cảng biển Quảng Ngãi đã tiếp nhận tàu hàng rời có tải trọng đến 200.000 tấn, tàu hàng lỏng có tải trọng đến 150.000 tấn, tàu hàng tổng hợp tải trọng đến 70.000 tấn giảm tải.
Theo quy hoạch tại Quyết định số 311 (Quy hoạch 311), mục tiêu đến năm 2030: Về hàng hóa và hành khách thông qua: hàng hóa từ 47,20 - 48,20 triệu tấn (chưa bao gồm hàng của các dự án mở rộng/ xây mới khu liên hợp sản xuất gang thép); hành khách từ 1,13 đến 1,26 triệu hành khách. Về kết cấu hạ tầng: có tổng số 11 bến cảng gồm 41 cầu cảng với tổng chiều dài 8.251,5 m (chưa bao gồm các bến cảng khác).
Tầm nhìn đến năm 2050, về hàng hóa và hành khách thông qua, hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 4,5% - 5,5%/năm. Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục phát triển các bến cảng mới đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa.
Mục tiêu quy hoạch đến năm 2030, cảng biển Quảng Ngãi có 11 bến cảng với 41 cầu cảng, tổng chiều dài hơn 8.250 m. Phạm vi, chức năng, cỡ tàu tại các khu bến tuân thủ theo Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 và Quyết định số 442/QĐ-TTg ngày 22/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
Cụ thể như sau:
- Khu bến Dung Quất: Hàng hóa thông qua tại cầu cảng, từ 38 triệu - 38,8 triệu tấn (chưa bao gồm hàng của các dự án mở rộng/ xây mới khu liên hợp sản xuất gang thép); hàng hóa thông qua bến phao (bến SPM) khoảng 8,6 triệu tấn.
Quy mô các bến cảng: Gồm 09 bến cảng với 38 cầu cảng, tổng chiều dài 7.861 m, chưa bao gồm các bến cảng khác. Chín bến cảng là: bến cảng nhà máy lọc dầu Dung Quất, PTSC Quảng Ngãi, bến số 3-PTSC, Gemadept Dung Quất, bến số 4-số 5, bến tổng hợp-container Hòa Phát Dung Quất, bến Doosan Dung Quất, bến tổng hợp Hào Hưng, bêsn chuyên dùng khu liên hợp gang thép Hòa Phát Dung Quất.
- Bến cảng Sa Kỳ: Hàng hóa thông qua từ 0,4 triệu - 0,5 triệu tấn, hành khách từ 554,8 ngàn - 613,3 ngàn lượt khách. Quy mô bến cảng gồm 01 bến cảng với 02 cầu cảng, chiều dài 200 m.
- Bến cảng Bến Đình (đảo Lý Sơn): Hàng hóa thông qua từ 0,2 triệu - 0,3 triệu tấn, hành khách từ 577,4 ngàn - 648,6 ngàn lượt khách. Quy mô: có 01 bến cảng, chiều dài 190 m. Ngoài ra, bến cảng Mỹ Á, các bến cảng trên đảo Lý Sơn, bến cảng tiềm năng khác, sẽ đầu tư phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, du lịch của địa phương; và khu vực neo đậu chờ đợi cầu, đợi luồng, tránh bão tại Dung Quất, cùng các khu vực khác cho tàu đến 200.000 tấn hoặc lớn hơn, khi đủ điều kiện.
Về nhu cầu sử dụng đất và mặt nước: Tổng nhu cầu sử dụng đất theo quy hoạch đến năm 2030 khoảng 217 ha (chưa bao gồm các khu vực phát triển các khu công nghiệp, logistics... gắn liền với cảng). Và tổng nhu cầu sử dụng mặt nước theo quy hoạch đến năm 2030 khoảng 28.650 ha (đã bao gồm diện tích vùng nước khác trong phạm vi quản lý không bố trí công trình hàng hải).
Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 là khoảng 10.830 tỷ đồng, gồm vốn đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng khoảng 2.870 tỷ đồng, và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng 7.960 tỷ đồng (chỉ bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa).
Cũng theo Quy hoạch 311, thời kỳ từ nay đến năm 2030 ưu tiên đầu tư các dự án về kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng, như: các kết cấu hạ tầng phục vụ công tác bảo đảm an toàn hàng hải như khu neo đậu tránh, trú bão, đài thông tin duyên hải; đầu tư xây dựng bến công vụ, cơ sở vật chất phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành.