Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Thành công nổi bật của sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết tinh truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm chống xâm lược và gần một trăm năm đấu tranh chống ách thống trị của thực dân đế quốc và phát-xít. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam cho thấy rõ phương thức huy động lực lượng tổng hợp, gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tạo nên sức mạnh áp đảo, giành chính quyền nhanh chóng, đồng loạt.

Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam hiện đang lưu giữ và trưng bày lá cờ đỏ sao vàng do Đội tự vệ xóm Bái Hội, xã Bảo Cường, huyện Định Hóa (cũ), tỉnh Thái Nguyên may, treo để cổ vũ phong trào cách mạng, tháng 6/1945. Ảnh: Bích Nguyên
Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm về bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức mạnh của bạo lực cách mạng trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng. Trong đó, lực lượng chính trị quần chúng giữ vai trò chủ yếu, mang tính quyết định, lực lượng vũ trang giữ vai trò quan trọng, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Đảng đã chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tập hợp toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp để Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị một cách mạnh mẽ để chống lại các chính sách đàn áp của thực dân Pháp và phát xít Nhật; đồng thời, chuẩn bị lực lượng vũ trang để sẵn sàng giành chính quyền khi thời cơ đến.
Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng đã lãnh đạo tập trung xây dựng và phát triển lực lượng chính trị quần chúng rộng rãi. Lực lượng chính trị bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, không phân biệt già - trẻ, gái - trai, giàu - nghèo, quý - tiện, dân tộc, tôn giáo, đảng phái. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã một lần nữa khẳng định rõ điều này: “Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[1] và “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” [2].
Song song với việc phát triển lực lượng chính trị, Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho đấu tranh vũ trang và Tổng khởi nghĩa. Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, các tổ chức cách mạng như Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc... được xây dựng sâu rộng trong cả nước. Lực lượng vũ trang cách mạng cũng phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1940, nhiều đội du kích, tự vệ và cứu quốc vũ trang được hình thành ở các địa phương. Đặc biệt, ngày 22/12/1944, theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời - tiền thân của QĐND Việt Nam. Lực lượng này được tổ chức chặt chẽ, huấn luyện chính trị và quân sự nghiêm túc, gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh. Đây là những lực lượng cơ bản, trực tiếp tham gia vào các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền; do đó, cách mạng đã có một lực lượng vũ trang mạnh mẽ, được trang bị vũ khí, có khả năng thực hiện các cuộc đấu tranh vũ trang chống lại sự đàn áp của kẻ thù.
Thực tế, cuộc Tổng khởi nghĩa cho thấy, các lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích, hỗ trợ và tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy, đồng thời, sự nổi dậy của quần chúng lại tạo đà và sức mạnh cho các cuộc tiến công quân sự. Hưởng ứng Lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[3], cả dân tộc Việt Nam nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Chỉ trong thời gian ngắn, từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945, hàng triệu người Việt Nam muôn người như một, từ miền Bắc tới miền Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi, đồng loạt nổi dậy giành chính quyền.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nếu như khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích là những đòn bẩy, đẩy tới cao trào cứu nước dâng lên trong cả nước thì đấu tranh chính trị của hàng triệu quần chúng ở nông thôn và thành thị kết hợp với đấu tranh vũ trang là những đòn tiến công quyết liệt đập tan chính quyền đế quốc và tay sai ở các thị trấn, thị xã và thành phố. Các đoàn thể quần chúng cách mạng thật sự là những đội quân đấu tranh chính trị chống địch ở khắp nông thôn và thành thị. Khi thời cơ xuất hiện, khi kẻ địch bị thất bại và hoang mang cực độ, những lực lượng chính trị đông đảo của các tổ chức quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giữ vai trò chủ động phát động quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Sự chủ động trong tiến hành và giành thắng lợi trong khởi nghĩa giành chính quyền một số địa phương kết hợp với thành công trong khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn là những đòn quyết định để Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước thắng lợi hoàn toàn.
Có thể thấy, trải qua thực tiễn, Đảng ta đã chủ động và giải quyết thành công sự kết hợp giữa các hình thức đấu tranh một cách linh hoạt, sáng tạo, biết kết hợp và chuyển đổi khéo léo các hình thức đấu tranh, khởi nghĩa phù hợp với quy luật và truyền thống “lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh” của ông cha ta. Thành công của Cách mạng Tháng Tám là biểu hiện sinh động của sự kết hợp chủ động nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa lực lượng quân sự với lực lượng chính trị để tạo nên phương pháp cách mạng hoàn chỉnh, đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù. Đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960) đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám thành công là do lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận tiện nhất, khởi nghĩa giành chính quyền Nhà nước. Nhưng nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và khi điều kiện chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành thắng lợi được”[4].
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.2.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.1-2.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.596.
[4] Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sơ thảo, tập I (1920 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.415.