Các giải pháp phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam tập trung vào việc phát triển toàn diện, nhanh chóng và bền vững các vùng đồng bào DTTS và miền núi. Mục tiêu là khai thác tiềm năng và phát huy lợi thế so sánh của các vùng này, đồng thời bảo vệ môi trường và không gian sống của đồng bào...

Những bước chuyển mình mạnh mẽ

Trong hơn một thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách quan trọng liên quan đến công tác dân tộc. Cụ thể như Nghị định số 05/2011 ngày 14/1/2011 của Chính phủ đã thiết lập một khung pháp lý quan trọng với 12 nhóm chính sách trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng và an ninh. Ngoài ra, Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 cùng các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đã cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và củng cố công tác dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, hướng đến phát triển bền vững cho các đồng bào DTTS…

Đặc biệt, ngày 20/11/2018, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 74/2018/QH14, giao Chính phủ xây dựng Đề án Tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào DTTS và miền núi, cùng với các vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.

Bảo tồn, giới thiệu văn hóa dân tộc Khmer

Bảo tồn, giới thiệu văn hóa dân tộc Khmer

Dựa trên Đề án do Chính phủ trình, ngày 18/11/2019, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 88/2019/QH14, phê duyệt Đề án Tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Đề án này tập trung vào việc xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào DTTS và miền núi trong giai đoạn 2021 - 2030. Chương trình này đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020. Đến ngày 14/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025.

Nhờ các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã nâng cao sự lãnh đạo và chỉ đạo, đồng thời nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy và tổ chức Đảng về công tác dân tộc, đặc biệt tại các vùng DTTS và miền núi. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được cải thiện đáng kể so với trước thời kỳ đổi mới, bao gồm các lĩnh vực như ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chăm sóc sức khỏe và truyền thông. Khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường, với các dân tộc tôn trọng, đoàn kết và hỗ trợ nhau trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhà nước đã chú trọng đầu tư vào các vùng DTTS, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu như giao thông nông thôn, điện, thủy lợi, nước sinh hoạt, cùng các công trình trường học và y tế. Điều này đã tạo ra sự thay đổi rõ rệt về bộ mặt nông thôn ở những khu vực này. Đến nay, 100% huyện có đường đến trung tâm huyện; 98,4% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% xã được tiếp cận với điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện đạt 93,9%; 100% xã có trường tiểu học và trung học cơ sở, 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,3 % xã có trạm y tế; gần 100% số xã có nhà văn hóa hoặc điểm bưu điện văn hóa...

Trong những năm gần đây, các tỉnh vùng DTTS và miền núi đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Cụ thể, các tỉnh vùng Tây Bắc tăng trưởng 8,4%, Tây Nguyên tăng 8,1%, và Tây Nam bộ tăng 7,3%. Ngành sản xuất, đặc biệt là nông nghiệp, đã phát triển mạnh mẽ với sự hình thành các vùng chuyên canh và sản xuất hàng hóa chủ lực như cà phê, hồ tiêu, chè, và cao su. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 3-4% mỗi năm, và ở một số nơi, giảm tới 5% mỗi năm. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào đã có sự cải thiện đáng kể.

Công tác giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tình trạng mù chữ cơ bản đã được xóa bỏ, và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đã được thực hiện. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được cải thiện, với sự phát triển cả về mạng lưới, trang thiết bị và đội ngũ y tế. Chất lượng khám chữa bệnh đã được nâng cao. Tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7% và hôn nhân cận huyết giảm 0,9%. Hệ thống y tế dự phòng cũng được đầu tư và phát triển, góp phần nâng cao ý thức phòng chống bệnh tật của người dân và ngăn ngừa dịch bệnh lớn.

Văn hóa các DTTS tiếp tục được gìn giữ và phát huy. Các thiết chế văn hóa cơ sở được củng cố, kết hợp với phong trào xây dựng văn hóa mới, và hạ tầng kỹ thuật phát thanh, truyền hình, thông tin liên lạc được đầu tư. Một số di sản văn hóa của đồng bào các DTTS đã được UNESCO công nhận là Di sản quốc gia.

Hệ thống chính trị ở vùng DTTS không ngừng được xây dựng và củng cố, ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Các giải pháp khắc phục khó khăn, thách thức

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, hiện nay, đời sống dân sinh và trình độ dân trí của đồng bào DTTS vẫn còn thấp so với mức chung của cả nước. Các vùng DTTS vẫn đối mặt với tình trạng nghèo đói, thu nhập thấp và tỷ lệ hộ nghèo cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu hụt so với nhu cầu sản xuất, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, tỷ lệ mù chữ vẫn còn cao, và hiệu quả giáo dục, đào tạo còn hạn chế. Văn hóa của các DTTS đang dần mai một, trong khi tình trạng tệ nạn xã hội gia tăng. Chất lượng dân số và sức khỏe của đồng bào DTTS thấp hơn so với toàn quốc, môi trường sống tiếp tục suy thoái và điều kiện vệ sinh chưa được cải thiện đầy đủ. Các vấn đề về lợi dụng và kích động liên quan đến dân tộc và tôn giáo từ các thế lực thù địch vẫn là mối lo ngại cần được giải quyết. Những thách thức này cho thấy công tác xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập.

Nhiều nội dung về dân tộc trong các văn kiện và nghị quyết của Đảng chưa được cụ thể hóa thành quy định pháp luật để triển khai trong các lĩnh vực như kinh tế, quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ. Một số quy định vẫn mang tính chung chung, khó áp dụng cụ thể và một số chính sách điều chỉnh theo hướng quốc gia mà chưa phù hợp với đặc điểm của từng vùng và dân tộc, như đầu tư xây dựng cơ bản và chương trình nông thôn mới. Thiếu sự tham gia của cộng đồng và chưa tính đến khả năng duy trì hiệu quả lâu dài cũng như bảo đảm công bằng và bình đẳng đối với mọi đối tượng. Các chính sách hiện tại thường có tính bao cấp, dẫn đến tình trạng trông chờ và ỉ lại.

Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ cán bộ địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở, không đồng đều và còn nhiều hạn chế, gây ra sự kém hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách. Nguồn lực thường không được phân bổ hợp lý hoặc bị phân tán và chồng chéo, trong khi công tác tổ chức thực hiện còn yếu kém. Một số nội dung trong chính sách chưa được điều chỉnh kịp thời để phù hợp với thực tiễn và yêu cầu mới. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, và giám sát chủ yếu do cơ quan chủ trì và những người thực hiện chính sách đảm nhiệm. Ở một số địa phương, công tác tổng kết và đánh giá chưa được chú trọng đúng mức, thường mang tính hình thức, chưa phản ánh đúng thành tựu, hạn chế và rào cản trong việc thực hiện chính sách.

Để phát triển bền vững vùng DTTS và miền núi, cần thực hiện tốt các giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo; triển khai các chương trình, dự án và chính sách dân tộc…

Một chuyến đi khảo sát vùng đồng bào Khmer

Một chuyến đi khảo sát vùng đồng bào Khmer

Cụ thể, cần tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo từ các cấp ủy, tổ chức Đảng, đồng thời nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân về vai trò quan trọng của công tác dân tộc và đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài ra, phải chủ động phối hợp hiệu quả trong việc hướng dẫn và triển khai các chương trình, dự án và chính sách dân tộc. Tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật, đồng thời vận động đồng bào DTTS thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước. Khuyến khích đồng bào phát hiện và phản ánh các điểm chưa hợp lý trong các chính sách dân tộc để kiến nghị cải tiến.

Tiếp tục triển khai và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án và chính sách dành cho đồng bào DTTS một cách hiệu quả. Nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Tiếp tục phân cấp mạnh mẽ cho địa phương và cơ sở trong việc thực hiện các chính sách dân tộc và miền núi. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc. Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về công tác dân tộc có phẩm chất và năng lực phù hợp.

TS. Hoàng Mạnh Tưởng - Học viện Chính trị khu vực II

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/cac-giai-phap-phat-trien-ben-vung-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-post525863.html
Zalo