Các đơn vị hành chính được tổ chức lại ra sao từ 1945?
Các tài liệu lưu trữ quốc gia cho biết quá trình xây dựng bộ máy hành chính các cấp những năm 1945-1975; việc phân định địa giới, chia tách, sáp nhập phù hợp điều kiện cụ thể mỗi giai đoạn.
Sau khi giành chính quyền về tay nhân dân và tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền, tổ chức các đơn vị hành chính.
Tổ chức đơn vị hành chính ở Việt Nam sau ngày độc lập
Theo sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời, vào thời điểm đó nước ta có 7 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn - Chợ Lớn và 65 tỉnh.

Sắc lệnh số 126 ngày 19/7/1946 ấn định thủ tục thiết lập các đơn vị hành chính hoặc sửa đổi địa giới các đơn vị hành chính. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, mục lục 1, hồ sơ 03, tờ 122.
Theo Sắc lệnh số 63-SL ngày 22 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, chính quyền nhân dân địa phương trong nước Việt Nam gồm hai cơ quan: Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chính. Còn trong Hiến pháp đầu tiên 1946, “về phương diện hành chính”, nước Việt Nam gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam.
Sau này, để đáp ứng và phù hợp với điều kiện kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta đã chia các bộ thành các đơn vị hành chính - kháng chiến là khu, rồi liên khu và thiết lập cơ quan hành chính ở các đơn vị này bảo đảm cho Chính phủ chỉ đạo và kiểm soát kịp thời, sâu sát được các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.Thực hiện Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, vĩ tuyến 17 tạm được xem là ranh giới phân định 2 miền Nam - Bắc, việc tổ chức đơn vị hành chính nước ta có nhiều thay đổi so với giai đoạn trước.
Trong giai đoạn từ năm 1954 - 1958, miền Bắc có những đơn vị hành chính như sau: Khu tự trị Việt Bắc (gồm các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn); Khu tự trị Thái Mèo (gồm 18 châu tương đương huyện, không có tỉnh: Than Uyên, Văn Chấn, Mai Sơn, Mộc Châu, Mường La, Phù Yên, Điện Biên, Mường Tè, Thuận Châu, Yên Châu, Sông Mã, Quỳnh Nhai, Mường Lay, Tuần Giáo, Sìn Hồ, Phong Thổ, Tủa Chùa, Mù Cang Chải); Khu tự trị Lao Hà Yên (gồm các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang);
Liên khu 3 (gồm các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình); Liên Khu 4 (gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, quảng Bình và Khu Vĩnh Linh); Khu Tả ngạn (gồm các tỉnh Hưng Yên, Kiến An, Hải Dương, Thái Bình); trực thuộc trung ương 2 thành phố là TP. Hà Nội, TP. Hải Phòng; các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Ninh và Khu Hồng Quảng.

Bản đồ phân định địa giới Hà Nội, năm 1945. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Bộ Nội vụ, hồ sơ 420, tờ 01.
Tổ chức lại các đơn vị hành chính để phù hợp hơn với tình hình mới
Từ cuối năm 1958, thực hiện việc bỏ khu, hợp tỉnh nên có các tỉnh mới được thành lập. Tới năm 1959, việc tổ chức đơn vị hành chính được quy định: “Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố trực thuộc trung ương chia thành khu phố. Ở mỗi đơn vị hành chính nói trên đều tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính cấp nào do Hội đồng nhân dân cấp đó bầu ra” (Điều 78 và Điều 79- Hiến pháp 1959).
Hiến pháp 1959 cũng xác định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. Còn Ủy ban hành chính là “cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương” (Điều 80 và Điều 87- Hiến pháp 1959). Những quy định này của Hiến pháp 1959 đề cao vị trí và vai trò của Hội đồng nhân dân trước Ủy ban hành chính cùng cấp và trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung.
Bằng những quy định này, Hội đồng nhân dân không còn đơn thuần là cơ quan thay mặt cho nhân dân địa phương mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt cho nhà nước ở địa phương.

Sắc lệnh số 020-SL ngày 23/3/1959 của Chủ tịch nước Việt Nam DCCH bãi bỏ cấp hành chính khu Lào - Hà -Yên, sáp nhập tỉnh Hà Giang vào Khu tự trị Việt Bắc. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 20.
Năm 1962, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp cũng nêu: “Các thành phố có thể chia thành khu phố ở nội thành và huyện ở ngoại thành”, “Các đơn vị hành chính kể trên đều có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính” (Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính năm 1962).
Miền Bắc nước ta lúc đó có 64 thị trấn, 33 thị xã, 3 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thành phố trực thuộc Trung ương. Bộ Nội vụ đã đề nghị Chính phủ ban hành Tiêu chuẩn thị trấn, thị xã, thành phố để điều chỉnh và phân chia, tổ chức lại các đơn vị hành chính như sau:
“Là thị trấn: những huyện lỵ có dân số từ 1.000 người trở lên, và những nơi có công trường, xí nghiệp, đầu mối giao thông, dân số khoảng 2.000 người trở lên và có ít nhất 3/4 nhân khẩu thuộc hộ phi nông nghiệp.
Là thị xã trực thuộc tỉnh: những tỉnh lỵ có dân số từ 5.000 người trở lên, hoặc những khu công nghiệp tập trung khoảng 5.000 cán bộ công nhân và có dân số nói chung trên dưới 10.000 người.
Là thành phố trực thuộc tỉnh: những thị xã và những khu công nghiệp tập trung khoảng 10.000 cán bộ công nhân và có dân số nói chung trên dưới 50.000 người.
Là thành phố trực thuộc trung ương: Những thành phố lớn mà tầm quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa ảnh hưởng đến cả nước, hoặc đến nhiều tỉnh trong nước, dân số nội thành trên dưới 200.000 người, và trung ương xét cần thiết phải do trung ương trực tiếp chỉ đạo. Các trường hợp khác như những khu vực nghỉ mát, những khu an dưỡng có quy mô xây dựng thiết bị lớn và dân số 5.000 người trở lên có thể đề nghị lập thị xã”.
Tính đến tháng 4/1974, miền Bắc nước ta có 26 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Hòa Bình, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng, Thái Bình, Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, TP Hà Nội, TP Hải Phòng.
Miền Nam (thời điểm trước 30/4/1975) có 40 tỉnh, thành phố: Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, Lâm Đồng, TP Đà Lạt, Tuyên Đức, Long Khánh, Bà Rịa, Biên Hòa, Bình Phước, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bến Tre, Long An, Kiến Tường, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Châu Tiền, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Long Châu Hà, Bạc Liêu, Cà Mau, Gia Định, TP Sài Gòn.
Sau khi giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, các tỉnh miền Nam được sắp xếp và tổ chức lại, đồng thời phân định lại địa giới các đơn vị trong toàn quốc.
Như vậy, việc tổ chức lại các đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính, thay đổi, chia tách, sáp nhập các đơn vị là sự cải tiến để phù hợp hơn trong tình hình mới: Nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tổ chức Hội nghị hiệp thương, chính thức thống nhất và hợp nhất hệ thống hành chính quốc gia trên toàn cõi.