Các dân tộc thiểu số với Cách mạng Tháng Tám 1945
Đồng bào các dân tộc thiểu số đã sớm giác ngộ cách mạng, góp sức người, sức của, sẵn sàng hiến dâng tất cả cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một dấu son chói lọi, khi cả dân tộc cùng vùng lên giành chính quyền, chấm dứt hàng chục năm đô hộ của thực dân, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho đất nước.
Trong thắng lợi vĩ đại ấy, không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) - những người đã sớm giác ngộ cách mạng, sẵn sàng hiến dâng tất cả cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một dấu son chói lọi, khi cả dân tộc cùng vùng lên giành chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ảnh: Lê Anh Dũng
Căn cứ địa vững chắc cho cách mạng
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 3/1945, tình hình chính trị tại Việt Nam có nhiều biến chuyển. Lợi dụng thời cơ kẻ thù mâu thuẫn, lực lượng cách mạng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.
Dù điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn nhưng các DTTS đã sớm tiếp cận tư tưởng cách mạng qua cán bộ Việt Minh. Đây chính là nền tảng dẫn tới sự tham gia mạnh mẽ và tự nguyện của đồng bào các DTTS trong cao trào đấu tranh giành chính quyền.
Trong tiến trình chuẩn bị và tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vùng Việt Bắc - nơi cư trú chủ yếu của các DTTS như Tày, Nùng, Dao, Mông... được ví như “chiếc nôi của cách mạng”. Chính tại đây, những chủ trương lớn của cách mạng đã được vạch ra, trong đó có kế hoạch Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Để có được địa bàn an toàn và vững chắc, những mái nhà tranh ở các bản làng đã trở thành nơi họp bí mật, nơi in ấn tài liệu, nuôi dưỡng cán bộ, làm trạm liên lạc, chuyển thư, vận chuyển vũ khí. Không ít gia đình dân tộc Tày, Nùng, Dao... trở thành cơ sở cách mạng trung kiên.
Ngay từ giữa tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, các đội du kích, dân quân tự vệ người DTTS đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng cách mạng, tổ chức mít tinh, tuần hành, đánh chiếm cơ quan hành chính địch, tước vũ khí của quân Nhật, giải tán bộ máy tay sai. Nhiều nơi giành chính quyền trước cả Hà Nội, tạo điều kiện thuận lợi để cuộc tổng khởi nghĩa lan nhanh trên phạm vi toàn quốc.
Tại vùng Tây Bắc, các chi bộ Việt Minh đã được xây dựng tại nhiều bản làng; những chiến khu, căn cứ cách mạng được hình thành, là nơi tập hợp lực lượng, huấn luyện, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Nhiều người DTTS đã trở thành cán bộ đầu tiên của chính quyền mới sau khởi nghĩa.
Tại Tây Nguyên, phong trào đấu tranh của các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na… cũng phát triển nhanh chóng mặc dù địa hình hiểm trở và điều kiện liên lạc hạn chế. Khi thời cơ đến, các buôn làng cùng nhất loạt nổi dậy, phá bỏ chính quyền tay sai, treo cờ đỏ sao vàng trên nhà rông, tuyên bố theo chính quyền cách mạng. Những đội tự vệ, thanh niên xung phong người dân tộc đã đóng vai trò nòng cốt trong giành và giữ chính quyền địa phương.
Tại Tây Nam Bộ, lực lượng quần chúng, đặc biệt là nông dân Khmer, đã nổi dậy giành chính quyền ở nhiều nơi như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…
Có thể nói, trong giai đoạn chuẩn bị và tiến tới Cách mạng Tháng Tám, đồng bào các DTTS đã trở thành lực lượng nòng cốt, góp phần tạo nên sức mạnh quần chúng to lớn.
Từ miền núi đến miền xuôi, từ Bắc vào Nam, các DTTS đã chứng minh rằng họ không chỉ là lực lượng hỗ trợ mà còn là lực lượng trực tiếp làm nên chiến thắng, góp phần tạo nên một cuộc cách mạng “thần tốc, ít đổ máu” - như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
Một trong những yếu tố quyết định làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó nổi bật là mối quan hệ gắn bó keo sơn giữa người Kinh và các DTTS trên khắp mọi miền đất nước.
Từ những ngày đầu chuẩn bị khởi nghĩa, người Kinh và đồng bào các DTTS đã sát cánh bên nhau trong từng trận đánh, từng hoạt động tổ chức, tuyên truyền cách mạng. Họ chia sẻ từng bát cơm, từng căn lán nhỏ giữa rừng sâu, bảo vệ lẫn nhau giữa vòng vây của địch.
Cán bộ người Kinh lên vùng cao đã nhanh chóng hòa mình vào đời sống của đồng bào, học tiếng dân tộc, ăn ở cùng dân, cùng làm, cùng chiến đấu. Ngược lại, đồng bào DTTS sẵn sàng coi cán bộ như người thân trong gia đình, che chở và bảo vệ đến cùng.
Trong chiến đấu, các đội du kích, dân quân tự vệ được tổ chức từ cả người Kinh và người DTTS, cùng phối hợp tác chiến nhịp nhàng, tạo nên thế trận liên hoàn khắp các vùng chiến lược.
Điều gắn kết người Kinh và các DTTS không chỉ là mối quan hệ sinh tồn mà còn là lý tưởng chung: giải phóng dân tộc, chấm dứt áp bức, mang lại tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho tất cả các dân tộc anh em trên dải đất Việt Nam. Sự đồng lòng ấy đã biến lòng yêu nước thành hành động cụ thể, giúp cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 diễn ra nhanh chóng, rộng khắp và ít đổ máu.
Chính tinh thần đoàn kết, gắn bó keo sơn đã trở thành “chìa khóa” mở cánh cửa thắng lợi cho cách mạng Việt Nam suốt chiều dài lịch sử.
Vai trò của đồng bào các DTTS sau Cách mạng Tháng Tám
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, tại nhiều địa phương vùng cao có đông đồng bào DTTS sinh sống, chính quyền cách mạng sơ khai đã được thành lập.
Đồng bào các DTTS không chỉ tuân thủ theo chủ trương của Đảng và Chính phủ mà còn trực tiếp tham gia vào bộ máy quản lý địa phương. Nhiều người trở thành cán bộ đầu tiên ở xã, huyện, góp phần đưa chủ trương cách mạng đến gần với nhân dân, vận động đồng bào đoàn kết, bài trừ các hủ tục, xóa bỏ tàn dư của chính quyền cũ, bảo vệ an ninh trật tự, giữ vững chính quyền mới được thiết lập.
Tại nhiều địa bàn hiểm trở, các đội du kích người DTTS đã trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt, vừa chiến đấu bảo vệ địa phương, vừa hỗ trợ lực lượng chính quy.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, vùng căn cứ địa cách mạng Việt Bắc một lần nữa trở thành trung tâm kháng chiến. Trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến, Việt Bắc trở thành “Thủ đô kháng chiến”, nơi đặt trụ sở Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan đầu não. Nhân dân các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông... tiếp tục là hậu phương kiên cường, cung cấp lương thực, vũ khí, nhân lực cho chiến trường.
Tương tự, đồng bào DTTS ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và nhiều địa phương khác cũng tích cực đóng góp cho kháng chiến, sẵn sàng hy sinh, hiến đất, nuôi quân, làm đường, gùi hàng tiếp tế cho bộ đội.
Vai trò của các DTTS sau Cách mạng Tháng Tám không hề giảm sút mà tiếp tục được phát huy mạnh mẽ. Họ không chỉ là “người đi theo cách mạng” mà đã trở thành một phần của cách mạng, gắn bó máu thịt với sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập non trẻ.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc càng trở nên quan trọng.
Đó không chỉ là bài học lịch sử mà còn là nền tảng để xây dựng một nước Việt Nam phát triển, giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh - nơi mọi dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, cùng tiến bộ và cùng góp sức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.