'Nếu không có nhân dân, chúng ta không làm được gì cả'
Ôn lại giá trị của sự kiện Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, GS Vũ Minh Giang nhắc tới bài học phải coi lợi ích dân tộc là trên hết và sự ủng hộ của nhân dân; tầm nhìn thế kỷ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khát vọng vươn lên sánh vai cường quốc.
Trao đổi với VietNamNet về ý nghĩa to lớn của thành công từ Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nói:
Dân tộc ta có nghìn năm văn hiến, bất khuất không biết cúi đầu trước những đạo quân xâm lược hùng mạnh và hung bạo, kiên cường đối mặt với những thử thách hiểm nghèo nên độc lập, tự do luôn là những giá trị thiêng liêng và đối với mỗi người dân Việt Nam “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một chân lý. Phải sống trong lầm than gần một thế kỷ dưới ách cai trị của thực dân là điều không thể chấp nhận. Nhiều thế hệ đã không quản hy sinh gian khổ, máu chảy đầu rơi liên tục vùng lên đấu tranh chống quân xâm lược, nhưng tất cả đều bị dìm trong bể máu. Phải đến mùa thu năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân ta mới giành được độc lập, lấy lại tên nước.

GS Vũ Minh Giang: Cách mạng Tháng Tám đã thiết lập một chính thể cộng hòa được xây dựng trên nền dân chủ, cam kết đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Ảnh: Lê Anh Dũng
Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là sự thành công to lớn của sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của đất nước. Cách mạng đã thiết lập một chính thể cộng hòa được xây dựng trên nền dân chủ, cam kết đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Khoảng thời gian tiến hành cách mạng không phải là “khoảng trống quyền lực”. Việt Minh đã chọn đúng thời điểm thuận lợi nhất cho việc nổ ra một cuộc cách mạng ít tổn thất nhất về mặt nhân lực, ít hao tổn nhất về mặt lực lượng mà thành công thì vang dội. Đấy là sự sáng suốt của những người lãnh đạo cách mạng, chọn đúng thời điểm, không thể sớm hơn và cũng không thể muộn hơn, là nghệ thuật chớp thời cơ. GS Vũ Minh Giang
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc biểu dương sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân. Đây là cuộc cách mạng gần như không có tiếng súng nổ, không tấn công, không dùng đến lực lượng vũ trang, mặc dù chúng ta đã có chuẩn bị. Chính sức mạnh quần chúng đã làm nên những sự kiện “long trời, lở đất”.
Tại Lễ tuyên ngôn độc lập được tổ chức vào ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngay sau đó, một cuộc Tổng tuyển cử trên quy mô toàn quốc đã được tiến hành để bầu ra Quốc hội, thông qua Hiến pháp. Từ đó chúng ta có một chính quyền hợp hiến, hợp pháp theo thông lệ quốc tế.
William S. Turley, một giáo sư chính trị học có tên tuổi ở Hoa Kỳ, trong cuốn sách “Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam dưới góc nhìn so sánh” (Vietnamese Communism in Comparative Perspective), đã nhận định: Trong số các đảng cộng sản cầm quyền thì Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng cầm quyền mà tính hợp hiến, hợp pháp, tính chính danh không một đảng nào có thể so sánh được.
Nếu như Cách mạng Tháng Tám là sự kiện huy động lực lượng vùng lên giành chính quyền thì sự kiện tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 là biểu dương lực lượng.

Cách mạng Tháng Tám thành công ở các tỉnh thành trên cả nước. Bản đồ: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ảnh: Lê Anh Dũng chụp lại
PHẢI COI LỢI ÍCH DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT
Thưa giáo sư, Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới của đất nước - kỷ nguyên độc lập. Cuộc cách mạng này đã để lại những bài học cốt lõi nào trong hành trình 80 năm xây dựng và phát triển đất nước?
Có mấy bài học cơ bản vẫn còn giá trị thời sự cho đến mai sau.
Thứ nhất là bài học chuẩn bị lực lượng. Lực lượng của Cách mạng Tháng Tám trước hết là đội ngũ lãnh đạo mà nòng cốt Việt Minh. Cùng với đó là lực lượng quần chúng. Nếu không có nhân dân, chúng ta không làm được gì cả. Trong bài học về chuẩn bị lực lượng, xây dựng lực lượng vũ trang với phương châm “người trước, súng sau”, lấy tuyên truyền đi trước – như tên của lực lượng vũ trang lúc ban đầu là Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Thứ hai là bài học “chớp thời cơ”. Năm 1944, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai vẫn đang diễn ra ác liệt, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã dự đoán: Tình hình đến, chỉ trong vòng khoảng một năm hoặc một năm rưỡi nữa thôi, sẽ có một thời cơ rất quan trọng. Phải khởi sự khi thời cơ thuận lợi nhất đến. Nét đặc sắc của Cách mạng Tháng Tám chính là thắng lợi của nghệ thuật chớp thời cơ.
Thứ ba là bài học về tranh thủ quốc tế. Đây là bài học rất lớn và đang còn nguyên giá trị trong bối cảnh quốc tế vô cùng sôi động và biến đổi khôn lường như hiện nay. Để tranh thủ sự ủng hộ của phe Đồng minh và tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh).
Tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia vẫn còn lưu giữ một tư liệu lịch sử mô tả sự giúp đỡ của Việt Minh với không quân Mỹ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật. Khi ấy trong lúc làm nhiệm vụ, một chiếc máy bay Mỹ bị quân Nhật bắn rơi xuống một địa điểm thuộc tỉnh Cao Bằng. Đích thân lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị phải tìm bằng được viên phi công Mỹ bị ấy, rồi bảo vệ, chăm sóc cẩn trọng và tìm cách đưa về Pác Bó.
Sau đó, Trung úy phi công William Shaw đã trở thành “cầu nối” để lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault (1893 - 1958), Tư lệnh Không đoàn 14, đại diện cho lực lượng Đồng minh tại vùng Hoa Nam (Trung Quốc). Cuộc gặp gỡ này đã giúp Việt Minh kết nối các lực lượng, hỗ trợ cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Mỹ đã cử một đội đặc nhiệm tới giúp ta.
Để tiếp nhận viện trợ, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn chỉ đạo xây dựng một sân bay dã chiến nhằm tăng cường sự hợp tác giữa Mặt trận Việt Minh và quân Đồng minh, tạo thuận lợi cho phong trào cách mạng Việt Nam. Sân bay Lũng Cò thuộc tỉnh Tuyên Quang được xây dựng và sử dụng cho đến tận tháng 8/1945.
Chính vì thực tế ấy mà trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chủ tịch đã khẳng định “…một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.

Đoàn xe chở Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới vườn hoa Ba Đình ngày 2/9/1945. Nguồn ảnh: Tư liệu TTXVN
Tiếp theo là bài học về bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn, nhất là khi “thù trong, giặc ngoài” bủa vây.
Hồ Chí Minh đã giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng để sang Pháp làm ngoại giao mấy tháng trời. Ở nhà, những âm mưu như vụ án Ôn Như Hầu hòng lật đổ chính quyền đã bị phá vỡ; chúng ta đã bình tĩnh, không bị sa vào âm mưu kích động hòng lấy cớ tiêu diệt chính quyền cách mạng của địch.
Bài học đầu tiên rút ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là phát huy sức mạnh của nhân dân. Chính quyền mới đã tiếp quản cả cơ đồ, nhưng tài chính khánh kiệt, trong tay không có gì ngoài lòng tin của người dân. Chính sự tin tưởng, yêu mến của nhân dân mà chính quyền đã trụ vững.
Nghe ca khúc "MƯỜI CHÍN THÁNG TÁM" - nhạc sĩ Xuân Oanh sáng tác năm 1945
Trong hành trình lịch sử 80 năm từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, nổi lên hai bài học xuyên suốt làphải coi lợi ích dân tộc là trên hếtvà sự ủng hộ của nhân dân. Nếu không đứng vững trên lập trường bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc thì chưa chắc chúng ta đã thành công.
Trong hành trình lịch sử 80 năm từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, nổi lên hai bài học xuyên suốt là phải coi Lợi ích dân tộc là trên hết và sự ủng hộ của nhân dân. Nếu không đứng vững trên lập trường bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc thì chưa chắc chúng ta đã thành công. GS Vũ Minh Giang
Phải trải qua một thời gian rất dài, chúng ta mới giành được độc lập, nhưng phải mất 30 năm với biết bao hy sinh, gian khổ, độc lập, thống nhất mới được trọn vẹn vào năm 1975.
Thế rồi, ngay lập tức chúng lại phải đương đầu với tất cả những khó khăn của thời hậu chiến, những hậu quả của thời kỳ chiến tranh lạnh, những sự hận thù của “thế lực thù địch”. Chúng ta mất 10 năm tưởng chừng như không đứng vững. Từng đoàn người bỏ nước ra đi, trong nước thì ăn không đủ, khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc.
Thế nhưng, chúng ta đã tiến hành cuộc cách mạng mang tên Đổi mới thành công, mà thành quả như lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
ĐỔI MỚI TƯ DUY, THÁO GỠ NẾP NGHĨ
Sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong một bài phỏng vấn nhân dịp 30 năm Đổi mới – nhìn lại thời kỳ trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, GS có ví von tình cảnh đất nước lúc bấy giờ cũng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Vậy điều gì đã đưa đất nước vượt qua những tình cảnh ngặt nghèo đó?
Đã có nhiều tổng kết công phu về gần 40 năm Đổi mới, nhưng tập trung thì vẫn là 2 nguyên nhân cốt lõi: Lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm gốc và được nhân dân ủng hộ.
Những bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Tám còn nguyên giá trị trong công cuộc này.
Chúng ta đã băn khoăn lựa chọn mô hình, nhưng thực sự mô hình nào mà lợi ích của dân tộc được đảm bảo thì phải tuân thủ.
Chúng ta giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và áp dụng hết sức sáng tạo quy luật cung cầu. Đã có một thời kỳ dài, chúng ta gần như loại bỏ quy luật cốt lõi này của kinh tế thị trường ra khỏi đời sống kinh tế, xã hội.
Nhưng, như Hồ Chủ tịch đã từng nói, cái gì có lợi cho dân phải hết sức làm, cái gì có hại nhân dân thì hết sức tránh. Sự nghiệp nào, công việc gì mà tạo được lòng tin, có sự ủng hộ của người dân thì sẽ thành công.

Từ một nước thiếu lương thực, phải nhập khẩu gạo, sau một thập kỷ, đến năm 1989, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba thế giới. Nguồn ảnh: Sách ảnh 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tấn
Tại sao “khoán chui” ở Đoàn Xá (Đồ Sơn, Hải Phòng) dù lãnh đạo phê bình, kỷ luật nhưng người dân lại bảo vệ? Chân lý có phải nằm trong những giáo điều mà nằm ở thực tiễn. Chân lý là cụ thể.
Việc “khoán chui” ở Hải Phòng là cơ sở để Nhà nước đưa ra chính sách khoán 100 vào năm 1981 và khoán 10 vào năm 1988. Những dấu ấn này cho thấy lãnh đạo khi biết lắng nghe, “phản tỉnh” và điều chỉnh chính sách từ thực tiễn thì sẽ quy tụ và phát huy được sức mạnh nhân dân.
Lãnh đạo xuất phát từ lợi ích của quốc gia, dân tộc, làm cho dân tin, dân ủng hộ thì thành công. Cho đến hôm nay và mai sau cũng thế.
Thưa giáo sư, điều gì khó khăn nhất trong công cuộc Đổi mới mà chúng ta đã vượt qua?
Đó là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế.
Khoan hãy khái quát cấp tiến hay bảo thủ. Với những gì mà thế hệ chúng tôi trải qua, khi nói đến kinh tế xã hội chủ nghĩa thì chỉ có hai thành phần: kinh tế quốc doanh và tập thể, không có kinh tế tư nhân. Khủng hoảng đã xảy ra, người dân thiếu ăn, kinh tế tới đáy, xã hội bức bách.
Có ý kiến nêu phải tạo điều kiện cho thêm thành phần kinh tế tư nhân tham gia bên cạnh quốc doanh và tập thể. Cuộc đấu tranh giằng co tư tưởng diễn ra quyết liệt, dần dần chân lý hiện ra. Chúng ta chấp nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có vai trò của kinh tế tư nhân.
Sau đó lại đến vấn đề: Đảng viên có được làm kinh tế hay không; vì quan niệm cho rằng đảng viên là những quần chúng tích cực thì không tham gia bóc lột mà kinh tế tư nhân thì được gán cho hai chữ đó.
Đã có lúc, đảng viên muốn tham gia hoạt động kinh tế phải xin ra khỏi Đảng.
Đã có những thảo luận phải xem xét thế nào mới là bóc lột, vốn 500 triệu hay 1 tỷ mới là bóc lột…
Cuối cùng, từ thực tiễn sinh động mới nhận thức ra: Kinh tế tư nhân không chỉ làm giá trị gia tăng, mà còn là chỉ dấu của sự năng động, sáng tạo, đóng góp cho xã hội, cho sự phát triển của đất nước…
Cũng phải đấu tranh ghê gớm lắm về mặt tư tưởng, chúng ta mới chấp nhận đảng viên được làm kinh tế.
Để có những thay đổi trong tư duy cũng phải trải qua vấp váp, sai lầm từ thực tế và sự sáng suốt của những người lãnh đạo.
Một đổi mới nữa trong tư duy là tháo gỡ nếp nghĩ “phe ta – phe địch”.
Thời chiến tranh lạnh, tư duy hai phe này rõ ràng lắm, ta chỉ chơi với phe ta thôi. Nhưng thế giới mênh mông, trong đầu chia phe thì không thể có chủ trương “làm bạn với tất cả các nước”. Không có ai là kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích dân tộc mình mới là vĩnh viễn - đó cũng là cuộc đổi thay có tính lột xác trong tư duy.
VẬN NƯỚC ĐANG TỚI
Từ một đất nước bước ra khỏi chiến tranh, bị bao vây cấm vận, đến nay, hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế ra sao?
Trước đây, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tư duy phòng bị, đối phó với thế giới bên ngoài. Khi Đông Âu sụp đổ, chúng ta có lúc chống chếnh.
Tôi đã từng đi nước ngoài thời kỳ bị bao vây, cấm vận. Sang Bali (Indonesia) để họp cũng mất hai ngày bay đến Liên Xô để qua Thái Lan, rồi từ Thái Lan mới vào được Indonesia. Bây giờ bay vài tiếng là tới.
Nói ra thì vị thế Việt Nam lúc bấy giờ nhỏ bé lắm. Có chăng, người ta chỉ biết đến một Việt Nam giỏi đánh nhau, dám đương đầu với Pháp và Mỹ trong chiến tranh là hết.
Nhưng sau gần 40 năm Đổi mới thì khác lắm rồi. Tôi sang dự hội nghị diễn đàn kinh tế quốc tế Nga tổ chức ở Saint Petersburg hồi tháng 6 năm nay, có hơn 100 nước đến dự. Tôi nhìn thấy, cảm nhận được rất rõ ở đây vị thế của Việt Nam đang lên rất mạnh.
GS Vũ Minh Giang: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy khát vọng xây dựng một quốc gia hùng cường ngay sau Cách mạng Tháng Tám. Với cơ đồ chưa từng có, chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới thực hiện khát vọng xây dựng một đất nước phồn vinh để sánh vai với các cường quốc năm châu. Clip: Đức Yên
Việt Nam hiện nay đã đủ sức, đủ thế, đủ lực để tham gia giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu của khu vực.
Việt Nam cũng có giá trị thương hiệu quốc gia tiến nhanh trong khoảng 10 năm qua.
Có một tổ chức đánh giá: Giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam còn cao hơn tổng GDP. Đó chính là một nguồn lực, một tài nguyên chứ không đơn thuần là danh tiếng.
Một đất nước đang lên với vị trí quốc tế như thế, có lẽ dùng từ mà bây giờ nhiều người nói, là vận nước đang tới.
Thưa giáo sư, chúng ta đón “vận nước đang tới” thế nào?
Tôi muốn quay lại câu chuyện của Cách mạng Tháng Tám.
Ít người để ý đến điều này. Đó là tại sao ngay sau khi tuyên bố độc lập vào ngày 2/9 một ngày, trong phiên họp của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu những nhiệm vụ cấp bách, trong đó có xóa nạn mù chữ và ngay sau đó ra quyết định thành lập "Ủy ban diệt giặc dốt" – Nha Bình dân học vụ.
Là người có tầm nhìn xuyên thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra: Nền độc lập bị nhà Nguyễn đánh mất vào cuối thế kỷ 19 với độc lập chúng ta vừa giành lại năm 1945 không giống nhau.
Nền độc lập đã mất giữa cuối thế kỷ thứ 19 là nền độc lập “đóng kín, đóng cửa tự hào, coi thường thiên hạ” - như lời Nguyễn Trường Tộ.
Nền độc lập mà Việt Nam có sau Cách mạng Tháng Tám đã phải đối mặt với các mối quan hệ có tính toàn cầu. Khi ấy chủ nghĩa thực dân đã có mặt ở khắp mọi nơi. Muốn có ánh sáng dưới mặt trời thì phải vươn lên để có vị thế trên bản đồ thế giới, đất nước phải trở nên hùng cường.
Tổ chức Bình dân học vụ là việc không một chính quyền nào giành độc lập thời kỳ đó làm cả, chỉ có Cụ Hồ, bởi vì Cụ nhận thấy “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Mà yếu thì hèn.
Nhưng chỉ nâng dân trí, toàn dân biết đọc cũng chưa thể làm được điều gì vĩ đại.
Toàn dân biết đọc biết viết, dân trí được nâng cao đã là một đổi thay mang tính cách mạng. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa thể xây dựng đất nước hùng cường. Cùng với nâng cao dân trí phải chấn hưng dân khí, phải chuyển tới toàn dân một thông điệp thiêng liêng về khát vọng phải vươn lên dưới ánh mặt trời, phải trở thành một quốc gia hùng cường, một dân tộc phồn vinh. Chính vì vậy mà cũng vào tháng 9 năm đó, trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
Sánh vai với các cường quốc năm châu chính là khát vọng vươn tới của cả dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ khai giảng đầu tiên của Đại học Quốc gia Việt Nam (tiền thân là Đại học Đông Dương) vào ngày 15/11/1945. Buổi lễ diễn ra tại giảng đường số 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự ra đời của một trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: Tư liệu/Theo Thể thao - Văn hóa, TTXVN
Trong hoàn cảnh tứ bề thọ địch, bận trăm công, nghìn việc, vào ngày 15/11/1945, Hồ Chủ tịch vẫn dành thời gian đến chủ trì lễ khai giảng và trực tiếp trao bằng cho những người tốt nghiệp Viện Đại học Đông Dương của Pháp, một trong những trung tâm đào tạo nhân tài hàng đầu châu Á đầu thế kỷ XX (sau cách mạng đổi thành Trường Đại học Quốc gia Việt Nam). Đây là thông điệp trọng dụng nhân tài của chính quyền cách mạng đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Muốn vươn lên đỉnh cao, trở thành cường quốc thì phải nâng dân trí, chấn hưng dân khí, trọng dụng nhân tài. Tư tưởng vĩ đại ấy đã được thể hiện rõ ràng ngay trong mấy tháng sau Cách mạng Tháng Tám.
Ước nguyện giản dị là được sống yên bình, ai cũng có cơm ăn áo mặc sẽ là chưa đủ để gìn giữ Độc lập, mà cần phải vươn lên thành cường quốc.
Nhưng để thực hiện được khát vọng đó, chúng ta phải mất 80 năm.
Chúng ta phải chống Pháp, chống Mỹ; chúng ta phải vượt qua khó khăn, phải Đổi mới.
Đến hôm nay chính là thời điểm thực hiện ý nguyện “sánh vai với cường quốc” - bắt đầu kỷ nguyên Vươn mình của dân tộc.
Khát vọng vươn mình để trở thành cường quốc bắt đầu từ Hồ Chí Minh, sau Cách mạng Tháng Tám.
Về dân trí, nếu như trước đây Chính phủ phát động Bình dân học vụ, thì bây giờ là Bình dân học vụ số, tức là người dân phải có hiểu biết về công nghệ, chuyển đổi số. Đây là bước đi ở tầng cao của Bình dân học vụ chữ.
Về dân khí, đó chính là khát vọng hùng cường, giàu mạnh.
Về nhân tài - theo như tôi quan sát - hiện nay lãnh đạo đang rất lắng nghe ý kiến của các chuyên gia và từng bước có những chính sách thu hút nguồn trí tuệ trong và ngoài nước. Ngay cả lãnh đạo trong bộ máy chính quyền cũng được đào tạo bài bản.
Giáo sư nhắc nhiều tới sức mạnh của lòng dân. Trong bài thơ "Đất nước" ở trường ca “Mặt đường khát vọng” mà nhiều thế hệ người Việt Nam từng học trên ghế nhà trường, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết những câu thơ:
“Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”.
Là một nhà sử học, ông muốn gửi gắm điều gì với các thế hệ về tinh thần “phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở…để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân” trong bối cảnh hiện nay?
Tôi muốn nhắc đến ba nhân vật lịch sử.
Thứ nhất là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn – người có công rất lớn trong kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên.
Sau khi chiến thắng một đế chế, một đạo quân hùng mạnh nhất thế giới ở thế kỷ 13, lúc được hỏi “Thắng lợi rồi, kế sách giữ nước tiếp theo là gì?”, Trần Quốc Tuấn nói rằng: “Ta thắng được giặc vì trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. Sức mạnh đoàn kết muôn dân là điều khắc cốt ghi xương của các thế hệ.
Cũng lịch sử cho thấy, dân tộc này mà để mất đoàn kết, mất lòng dân thì nguy hiểm dường nào. Đó là bài học của Hồ Quý Ly.
Không ai nghi ngờ về lòng yêu nước của ông cũng như trình độ, lực lượng có trong tay ông. Tòa thành kiên cố nhất trong lịch sử trung đại, quân đội đông, vũ khí mạnh. Sử có chép lại có một đoạn đối thoại giữa ông với con trai là Hồ Nguyên Trừng. Hồ Quý Ly ước có đội quân thật mạnh để chống giặc, còn Hồ Nguyên Trừng thong thả thưa rằng: “Tâu bệ hạ, đánh thần không sợ, chỉ sợ lòng dân không theo”. Cầm cự chưa đầy năm nhưng không được lòng dân, Hồ Quý Ly đã để đất nước rơi vào tay giặc Minh.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói đến nhân dân là muốn nhắn nhủ rằng nhân dân không phải chỉ là số đông, mà nhân dân còn là tinh thần đoàn kết, trên dưới đồng lòng.
Nhân vật lịch sử thứ hai là Nguyễn Trãi ở thế kỷ 15.
Triều Lê có công lao rất lớn giành lại độc lập sau Khởi nghĩa Lam Sơn mà Nguyễn Trãi là cố vấn tối thượng. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa này không chỉ là giành lấy chính quyền, mà còn là cứu một nền văn hóa khỏi bị triệt hạ.
Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa thế giới – từng nói rằng “Nghĩ kế nước nhà trường cửu/ Tha cho mười vạn hàng binh/ Gây lại hòa hảo cho hai nước/ Dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Điều quan trọng nhất không phải là chiến thắng trong chiến tranh mà phải dập tắt muôn đời chiến tranh.
Người Việt Nam có truyền thống yêu chuộng hòa bình, dân tộc này phải tìm mọi cách giữ gìn hòa bình. Hòa bình ấy được gìn giữ trên cái nền giữ được lợi ích của dân tộc.

Các khối diễu binh, diễu hành của Quân đội và Công an tham gia tổng hợp luyện lần 2 tại Trung tâm Huấn luyện quân sự quốc gia 4 (Hà Nội), chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Ảnh: Tuấn Huy
Nhân vật thứ ba là Hồ Chí Minh ở thế kỷ 20.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của văn hóa Việt Nam, là anh hùng dân tộc và là nhà văn hóa lớn. Người là lãnh tụ vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, không chỉ của Việt Nam mà của nhân loại, từ đưa ra chân lý bất hủ “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong sâu thẳm tư tưởng của Người, nhân dân là tối thượng.
Người từng nói “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Là một chiến sĩ kiên cường nhưng Hồ Chủ tịch lại là biểu tượng của hòa bình, nhân ái. Theo Người, hòa bình là lợi ích của tất cả các dân tộc, do đó phải đấu tranh cho hòa bình trên thế giới được bền vững, giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta. Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí và gìn giữ hòa bình không phải ở chỗ chỉ là nhún nhường, mà phải vươn lên trở thành một cường quốc. Tư tưởng đó là lớn nhất cho đến nay.
Chính Người đã khơi dậy khát vọng xây dựng một quốc gia hùng cường ngay sau Cách mạng Tháng Tám.
Với cơ đồ chưa từng có, chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới thực hiện khát vọng xây dựng một đất nước phồn vinh để sánh vai với các cường quốc năm châu.