'Bộ tứ trụ cột' - Mạch nguồn chất lượng thể chế - Bài 1: 'Bốn trụ - Một khối' - Kiến trúc nền tảng cho kỷ nguyên cất cánh
Trong dòng chảy đầy biến động của thế giới, khi những đứt gãy về địa - chính trị, kinh tế, công nghệ ngày càng phức tạp, Việt Nam đã chủ động chuyển mình với tư duy đổi mới và hành động quyết liệt.

Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy phát triển đặt khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở vị trí trung tâm của chiến lược quốc gia. Ảnh: TTXVN
Việc ban hành liên tiếp bốn nghị quyết có tính chất đột phá - được ví như “Bộ tứ trụ cột” của tiến trình phát triển đất nước trong thời đại mới đã định hình kiến trúc phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới - kiến trúc “Bốn trụ - Một khối”. Đây được coi là bộ khung chính sách vững chắc, nhất quán và hiện đại. Hơn lúc nào hết, vấn đề đặt ra là hiện thực hóa bộ khung chính sách này một cách quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ và có trách nhiệm, để chắp cánh cho những nguồn lực mới, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển bền vững, toàn diện và có bản sắc riêng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. TTXVN thực hiện chùm 2 bài bình luận với chủ đề: “Bộ tứ trụ cột” - Mạch nguồn chất lượng thể chế.
Bài 1: “Bốn trụ - Một khối” - Kiến trúc nền tảng cho kỷ nguyên cất cánh
Chỉ trong vòng nửa năm (từ tháng 12/2024 đến tháng 5/2025), bằng việc ban hành liên tiếp bốn nghị quyết có tính chất đột phá - được ví như “Bộ tứ trụ cột” của tiến trình phát triển đất nước trong thời đại mới, Việt Nam đang từng bước hình thành một kiến trúc phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới - kiến trúc “Bốn trụ - Một khối”.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân không chỉ mang tính định hướng chiến lược, mà còn mở ra những “trục xoay” phát triển toàn diện và bền vững.
Khái niệm “bốn trụ” ở đây không chỉ đơn thuần là bốn mảng chính sách, mà là bốn mạch nguồn quan điểm chi phối chất lượng thể chế, đổi mới quan điểm kinh tế phát huy tiềm lực kinh tế của đất nước, năng lực đổi mới quốc gia và khả năng tự định đoạt vị thế trên “bàn cờ” toàn cầu. Điều đáng nói là bốn nghị quyết này không đứng độc lập mà tạo thành một khối thống nhất và bổ trợ lẫn nhau, trong đó khoa học - công nghệ là công cụ; pháp luật là nền tảng; hội nhập là giải pháp tạo không gian mở và kinh tế tư nhân là lực lượng vận hành. Cả bốn cùng hướng tới mục tiêu xây dựng một Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, tự cường và có vị thế cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ra đời vào cuối năm 2024, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy phát triển đặt khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở vị trí trung tâm của chiến lược quốc gia. Nghị quyết không chỉ đề cập đến việc ứng dụng công nghệ, mà còn định vị lại vai trò sáng tạo công nghệ nội địa, xây dựng hệ sinh thái số do người Việt làm chủ và định vị chuỗi gắn kết giữa viện - trường - doanh nghiệp - Nhà nước… Cùng với đó, sự dịch chuyển từ “ứng dụng công nghệ” sang “sáng tạo công nghệ” chính là bước nhảy về chất của mô hình tăng trưởng. Đây không chỉ là trụ cột về tri thức mà còn được coi là "cỗ máy tăng trưởng" mới của nền kinh tế, là lõi công nghệ - nơi khởi sinh năng lực cạnh tranh dài hạn.
Nếu ví công nghệ là lõi động cơ, thì thể chế pháp luật chính là “hệ điều hành” của quốc gia khi pháp luật được coi là nền tảng của mọi hoạt động trong nhà nước pháp quyền. Trước yêu cầu cấp bách phải sửa đổi cách xây dựng luật để bắt kịp với thực tiễn, tránh tình trạng luật chồng chéo, khó thi hành hoặc tụt hậu so với chuyển động của đời sống, cộng với bối cảnh mới khi các lĩnh vực mới như kinh tế số, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh - kinh tế tuần hoàn đang phát triển nhanh, mạnh, hơn bao giờ hết, hệ thống pháp luật phải trở nên linh hoạt. Không thể giữ cách làm luật cũ chậm, chồng chéo và không thân thiện với đổi mới trong một kỷ nguyên mới, cũng như không thể không thay thế một bộ động cơ nhanh, mạnh, linh hoạt nhưng không tùy tiện, tiên liệu được xu hướng mà không gò ép thực tiễn để phù hợp với tốc độ của guồng máy đang tăng tốc. Với ý nghĩa đó, Nghị quyết số 66 thể hiện sự quyết tâm của Đảng trong việc nâng cao chất lượng thể chế, cải cách lập pháp và hành pháp nhằm đáp ứng đòi hỏi phát triển nhanh và bền vững của đất nước và trụ cột pháp luật chính là kết cấu mềm của năng lực điều hành quốc gia.
Nếu coi khoa học - công nghệ, thể chế pháp luật là “lõi”, thì hội nhập quốc tế trong tình hình mới chính là phương thức tạo dựng không gian chiến lược cho sức mạnh Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Nghị quyết số 59 là quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình. Nhưng không chỉ là câu chuyện về thương mại hay mở cửa thị trường, không chỉ là tham gia CPTPP, RCEP hay FTA, hội nhập của Nghị quyết số 59 - hội nhập của kỷ nguyên mới đã mở rộng hàm nghĩa trong bối cảnh mới, bao gồm cả hội nhập số, hội nhập xanh, hội nhập về chuẩn mực pháp lý, đạo đức toàn cầu và giá trị phát triển bền vững… Hội nhập của Nghị quyết số 59 là hội nhập có chọn lọc, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu nhưng không đồng nghĩa với khép kín hay co cụm… Có thể nói, Nghị quyết số 59 tạo điều kiện để Việt Nam định hình vai trò tích cực hơn trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, khi đã nhận thức về xu hướng vận động của cục diện thế giới một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn trong bối cảnh hiện nay.
Đặt trong bối cảnh của “bộ tứ trụ cột”, Việt Nam không thể phát triển thể chế pháp luật tiên tiến nếu không tiếp cận hệ thống tiêu chuẩn quốc tế; không thể có đổi mới công nghệ nếu không hòa mình vào mạng lưới đổi mới toàn cầu và kinh tế tư nhân không thể lớn mạnh nếu không vươn ra thị trường quốc tế. Vì vậy, Nghị quyết số 59 không thể tách rời khỏi ba trụ còn lại và hội nhập là hệ sinh thái mở - nơi pháp luật phải tương thích, công nghệ phải tương liên và doanh nghiệp tư nhân phải trở thành “công dân toàn cầu”…

Sản xuất ngành dệt may xuất khẩu sang châu Âu. Ảnh: Đỗ Phương Anh - TTXVN
Một trong 4 trụ cột còn lại được kỳ vọng bứt phá nhanh và mạnh mẽ nhất - Nghị quyết số 68 ban hành vào tháng 5/2025, là bước tiếp theo của hành trình khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng về việc kiến tạo môi trường bình đẳng, thông thoáng cho khu vực tư nhân phát triển thực chất, hiệu quả và bền vững. Đây không còn là sự khẳng định mang tính khuyến khích, mà là một lựa chọn chiến lược, thể hiện tư duy phát triển nhất quán, minh bạch và hiện đại khi nhìn nhận tư nhân không chỉ là một bộ phận của nền kinh tế, mà là một nguồn lực chiến lược, có thể đồng hành cùng Nhà nước trong kiến tạo phát triển. Việc chính thức đặt kinh tế tư nhân vào vị trí "trụ cột" được kỳ vọng tạo ra không gian phát triển lớn hơn cho khu vực này, đồng thời khơi thông các nguồn lực trong xã hội.
Đặt trong kết cấu “Bốn trụ - Một khối”, kinh tế tư nhân chính là lực lượng gánh vác sứ mệnh của chuyển đổi số và hội nhập. Để kinh tế tư nhân thật sự lớn mạnh, cần thể chế linh hoạt, cần tiếp cận công nghệ đỉnh cao và cần môi trường toàn cầu hóa. Và ở chiều ngược lại, nếu không có một khu vực tư nhân năng động, sáng tạo và đủ sức cạnh tranh quốc tế, thì ba trụ kia sẽ chỉ “nội sinh mà không phát triển” khi không có trụ nào có thể phát huy tác dụng một cách riêng lẻ.
Với ý nghĩa đó, “Bộ tứ trụ cột” không chỉ mang ý nghĩa về mặt chính sách mà còn thể hiện tầm vóc tư duy chiến lược và khát vọng vươn lên của dân tộc trong kỷ nguyên mới với mô hình: Thể chế pháp quyền tạo điều kiện - Đổi mới sáng tạo dẫn dắt - Kinh tế tư nhân thúc đẩy thực thi và hội nhập quốc tế mở rộng không gian phát triển. Mỗi nghị quyết là một trụ cột chiến lược, nhưng đặt trong mối liên quan mang tính đồng vận - hỗ trợ lẫn nhau, mỗi nghị quyết chỉ phát huy khi được tích hợp trong một cấu trúc tư duy phát triển mới. Công nghệ cần thể chế mềm để cất cánh; thể chế cần công nghệ để nâng cao tính minh bạch, khả năng giám sát của xã hội; kinh tế tư nhân cần công nghệ - pháp luật - hội nhập để lớn mạnh và hội nhập là không gian để cả ba trụ còn lại phát huy giá trị và lan tỏa ảnh hưởng… “Bộ tứ trụ cột” vì thế không chỉ là sự cộng gộp của bốn chính sách, mà là hệ sinh thái chiến lược phát triển quốc gia, với logic vận hành mới, tư duy chính trị mới và khát vọng phát triển mới. Theo định hướng đó, “Bốn trụ - Một khối” tạo thành một liên kết bền vững, tạo điểm tựa để Việt Nam cất cánh vươn lên. Sự thống nhất của “Bốn trụ - Một khối” còn được thể hiện khi tất cả các nghị quyết đều nhấn mạnh vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cũng như sự tham gia tất cả các thành phần xã hội: doanh nghiệp, giới trí thức, người dân… Đặc biệt, người dân và doanh nghiệp được xác định là trung tâm và chủ thể sáng tạo trong phát triển với định hướng bồi đắp mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp quốc gia, khơi dậy nguồn lực đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn với mục tiêu đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường phát triển. Tất cả tạo nên sự thống nhất, trọn vẹn của kiến trúc “Bốn trụ - Một khối”!.
Tác giả bài viết:

Bài 2: Từ chính sách đến hành động