Bộ trưởng Tư pháp trình cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật

Chiều 20/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đã trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. (Ảnh: Lâm Hiển)

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. (Ảnh: Lâm Hiển)

Theo Bộ trưởng, trong thời gian qua, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, định hướng quan trọng trong việc tập trung giải pháp hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật. Đặc biệt, ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đặt ra mục tiêu: “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định pháp luật”.

Tại Thông báo số 05-TB/BCĐTW ngày 11/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo: (1) Tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, nhất là những quy định có mâu thuẫn, chồng chéo, các quy định bất hợp lý, không khả thi, quy định không rõ ràng, tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau trong hệ thống pháp luật; (2) Báo cáo Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết của Quốc hội về xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật vào đợt 2, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Chính phủ đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi thuộc thẩm quyền của Chính phủ, đối với các vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết, pháp lệnh thì vẫn phải trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định nên nhiều trường hợp còn chậm, chưa kịp thời. Do vậy, việc xây dựng, trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật là rất cần thiết để kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật kìm hãm, cản trở, gây ách tắc phát triển kinh tế - xã hội.

Việc ban hành Nghị quyết nhằm tạo cơ sở pháp lý để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng, ưu tiên, cấp bách cần xử lý ngay để kịp thời khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, đưa pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh.

Quan điểm xây dựng dự thảo Nghị quyết là thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương của Đảng trong việc xử lý những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật; xây dựng quy trình đặc biệt để xử lý ngay một số vướng mắc, bất cập trong các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có tính cấp bách; bảo đảm kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quá trình xử lý các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.

Quang cảnh phiên họp chiều 20/6. (Ảnh: Lâm Hiển)

Quang cảnh phiên họp chiều 20/6. (Ảnh: Lâm Hiển)

Về nội dung cơ bản, dự thảo Nghị quyết quy định 03 tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, gồm: (1) Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật. (2) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật. (3) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển mô hình kinh doanh mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.

Về nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, dự thảo Nghị quyết quy định 05 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.

Về phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, dự thảo Nghị quyết quy định 02 phương án, gồm: (1) Giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 60, 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.

Cụ thể, các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải được xử lý theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn” trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, khoản 3 Điều 4 dự thảo Nghị quyết cho phép Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất. Trường hợp đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì phải xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết để điều chỉnh, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các khó khăn, vướng mắc do quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác thì cơ quan ban hành văn bản phải sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền.

Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, dự thảo Nghị quyết quy định bước 1: Cơ quan ban hành hoặc cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm nghiên cứu, rà soát, xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật và phương án sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để xử lý theo quy định tại Nghị quyết này.

Bước 2: Xử lý khó khăn, vướng mắc theo các phương án. Trường hợp Chính phủ ban hành nghị quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của dự thảo Nghị quyết thì cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng hồ sơ dự thảo nghị quyết gửi Bộ Tư pháp để thành lập Hội đồng thẩm định độc lập thẩm định trước khi trình Chính phủ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự thảo nghị quyết, Hội đồng thẩm định độc lập có trách nhiệm thẩm định văn bản. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng thẩm định, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ dự thảo nghị quyết, trình Chính phủ xem xét, thông qua.

Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật khác được thực hiện theo thủ tục rút gọn quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trường hợp cần xây dựng, ban hành văn bản trong trường hợp đặc biệt thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định tại Điều 52 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Về tổ chức thực hiện và hiệu lực thi hành, dự thảo quy định Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 và được thực hiện đến hết ngày 28/02/2027.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp và Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng. (Ảnh: Lâm Hiển)

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp và Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng. (Ảnh: Lâm Hiển)

Trình bày Báo cáo tóm tắt thẩm tra dự án Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp và Pháp luật (UBPLTP) của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, UBPLTP tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết với cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn như được nêu trong Tờ trình của Chính phủ; đồng thời, đánh giá cao sự nỗ lực, khẩn trương của Cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc chuẩn bị hồ sơ dự án Nghị quyết; tán thành trình tự xây dựng, ban hành Nghị quyết như đề xuất của Chính phủ; hồ sơ dự án đầy đủ, đúng quy định.

Về phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết, theo UBPLTP, để bảo đảm chặt chẽ, đề nghị xác định rõ một số nội dung quan trọng, mang tính nền tảng, các nguyên tắc hiến định liên quan đến tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tội phạm và hình phạt, về tố tụng tư pháp..., sẽ không áp dụng Nghị quyết này; đồng thời, ưu tiên giải pháp sửa đổi luật, nghị quyết để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là đối với các dự án luật, nghị quyết thuộc Chương trình lập pháp năm 2025 - 2026. Ngoài ra, khi Quốc hội ban hành Nghị quyết này thì đề nghị rà soát, chỉnh lý các quy định về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc trong một số dự thảo luật trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp này để bảo đảm thống nhất với quy định của Nghị quyết.

Về tiêu chí xác định, nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, UBPLTP cơ bản tán thành 03 tiêu chí xác định, 05 nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc quy định tại dự thảo Nghị quyết. Bên cạnh đó, đề nghị nghiên cứu, bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, vì đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát chất lượng xây dựng, ban hành văn bản, bảo đảm để việc xử lý khó khăn, vướng mắc không làm phát sinh thêm mâu thuẫn, chồng chéo mới hoặc gây xung đột với các quy định khác của pháp luật…

Minh Hòa

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/bo-truong-tu-phap-trinh-co-che-xu-ly-kho-khan-vuong-mac-do-quy-dinh-cua-phap-luat-post552413.html
Zalo