Bộ Công Thương xin ý kiến tham vấn đối với Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII
Theo Bộ Công Thương, cần thiết phải thực hiện các phân tích, dự báo, tính toán cụ thể để xác định kịch bản phát triển điện tối ưu, và điều chỉnh Quy hoạch điện VIII trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là yêu cầu cấp bách nhằm đảm bảo cung cấp đủ điện, kịp thời cho phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với quy định pháp luật.
Căn cứ văn bản số 9600/VPCP-CN ngày 26/12/2024 của Văn phòng Chính phủ về Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), Bộ Công Thương đã rà soát và xây dựng các nội dung cần xin ý kiến tham vấn đối với Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII.
Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII là yêu cầu cấp bách
Theo báo cáo của Bộ Công Thương về Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII), dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và nỗ lực của các Bộ, Ngành, địa phương, tình hình kinh tế xã hội năm 2024 phục hồi tích cực, lạm phát được kiểm soát và tăng trưởng cả nước ước đạt trên 7%.
Năm 2025 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá về đích của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021-2025 và chuẩn bị, củng cố các yếu tố nền tảng, làm tiền đề để nước ta tự tin bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, tạo tiền đề hướng đến tăng trưởng kinh tế 2 con số trong giai đoạn 2026-2030 với nhiệm vụ chính là:
(i) Tăng tốc, bứt phá, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 đạt trên 8% (cao hơn chỉ tiêu Quốc hội giao).
(ii) Làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, giai đoạn 2026-2030 tập trung vốn vào các dự án chuyển tiếp và các chương trình, dự án, công trình quan trọng quốc gia, chương trình mục tiêu quốc gia, dự án trọng điểm.
(iii) Thúc đẩy, tạo đột phá cho các động lực tăng trưởng mới, tập trung vào chuyển đổi số, thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn, lĩnh vực mới, công nghệ cao như chíp bán dẫn, trí tuệ nhận tạo, điện toán đám mây, internet vạn vật, phát triển kinh tế biển, đô thị, kinh tế vùng, liên kết vùng … đẩy mạnh chuyển đổi xanh.
(iv) Quyết liệt thực hiện các cam kết tại COP26, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Ổn định chính trị, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế thực chất, hiệu quả.
Trải qua gần 2 năm thực hiện, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng ngành điện về cơ bản đã đảm bảo cung cấp điện an toàn, tin cậy, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước. Tới thời điểm hiện tại, đã có nhiều biến động lớn trong phát triển điện lực, như với dự báo tăng trưởng kinh tế và định hướng các ngành kinh tế như nêu trên, nhu cầu điện giai đoạn 2026-2030 sẽ tăng mạnh, do vậy việc huy động các nguồn và lưới điện sẽ có sự thay đổi mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh Quy hoạch điện VIII thực hiện khó khăn trong thời gian qua. Hơn nữa, xem xét về cơ sở chính trị và cơ sở thực tiễn đòi hỏi phải có sự điều chỉnh Quy hoạch điện VIII được nêu cụ thể dưới đây:
Trong bối cảnh các nước trên thế giới đang hướng tới thực hiện mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 và xu hướng chuyển sử dụng năng lượng sang các nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Sự phát triển về khoa học công nghệ tạo điều kiện thuận lợi để tích hợp nhiều nguồn điện mặt trời, điện gió vào hệ thống điện, nhất là chi phí cho các hệ thống lưu trữ năng lượng có xu hướng giảm nhanh.
Tình hình địa chính trị quốc tế (xung đột Nga - Ukraine, khu vực trung đông, các biện pháp trừng phạt kinh tế,…) đang còn tiếp diễn phức tạp, dẫn đến những biến động về giá nhiên liệu nhập khẩu cho sản xuất điện; ảnh hưởng đến thu hút đầu tư FDI, ảnh hưởng do các quy định về thuế CO2 đối với hàng hóa xuất khẩu …
Việc triển khai nhiều dự án nguồn điện chạy nền - lưới điện trong Quy hoạch điện VIII gặp nhiều khó khăn vướng mắc về cơ chế chính sách, các cam kết thực hiện Mục tiêu Net-zero về phát thải Các bon của Việt Nam đến năm 2050. Đặc biệt là, các dự án điện khí LNG, chỉ có 3 dự án (Nhơn Trạch 3, 4 và Hiệp Phước khoảng 2.824 MW) đang được xây dựng trong số 13 dự án (khoảng 22.400MW); Các dự án sử dụng khí trong nước có nhiều rủi ro về tiến độ trước 2030 do trữ lượng và tiến độ nguồn khí chưa rõ ràng; Các dự án điện than, điện gió ngoài khơi cũng có nhiều rủi ro về tiến độ trước 2030 do cam kết giảm phát thải, do yêu cầu vốn đầu tư lớn, công nghệ và thời gian chuẩn bị và xây dựng kéo dài. Do vậy, Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị về chủ trương tái khởi động lại điện hạt nhân.
Với các căn cứ trên có thể sẽ làm thay đổi mục tiêu, nội dung của Quy hoạch điện VIII như nhu cầu điện, cơ cấu nguồn tối ưu hệ thống truyền tải, nhu cầu sử dụng đất, vốn đầu tư.
Ngoài ra, giai đoạn 2022-2024 nhiều chiến lược, quy hoạch ngành quốc gia khác thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng đã được phê duyệt, đòi hỏi cần có sự phù hợp giữa Quy hoạch điện VIII với các quy hoạch ngành quốc gia này trong quá trình thực hiện.
Vì vậy, cần thiết phải thực hiện các phân tích, dự báo, tính toán cụ thể để xác định kịch bản phát triển điện tối ưu và điều chỉnh Quy hoạch điện VIII trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là yêu cầu cấp bách nhằm đảm bảo cung cấp đủ điện, kịp thời cho phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với quy định pháp luật.
Quy hoạch điện VIII điều chỉnh bám sát, tiếp thu đầy đủ các chỉ đạo và góp ý có liên quan
Theo đó, căn cứ văn bản số 9600/VPCP-CN ngày 26/12/2024 của Văn phòng Chính phủ về Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), Bộ Công Thương đã rà soát và xây dựng các nội dung cần xin ý kiến tham vấn đối với Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII.
Đề án Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII gồm 12 Chương. Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã nghiên cứu, tính toán một số kịch bản, phương án khác nhau đảm bảo tính khách quan, khoa học, tuân thủ chặt chẽ trình tự, thủ tục trong lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch. Đề án đã tuân thủ các văn kiện của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển năng lượng, quy hoạch tổng thể quốc gia, bám sát và tiếp thu đầy đủ các chỉ đạo của Thường trực Chính phủ, Lãnh đạo Chính phủ, ý kiến góp ý của các bộ, ngành, các địa phương, các tổ chức, hiệp hội trong và ngoài nước có liên quan.
Quy hoạch điện VIII điều chỉnh sau khi hiệu chỉnh, hoàn thiện sẽ đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, bao gồm:
(i) Phạm vi và nội dung quy hoạch tuân thủ và giải quyết đầy đủ các nhiệm vụ nêu trong Quyết định số 1710/ QĐ-TTg ngày 31/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch.
(ii) Quy hoạch đã bám sát và cơ bản đáp ứng các chỉ tiêu về phát triển điện lực đến năm 2030 theo Nghị quyết 55/NQ-TW, nhịp độ phát triển kinh tế theo Nghị quyết 81 về Quy hoạch tổng thể quốc gia, đáp ứng được cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu, đảm bảo chỉ tiêu về diện tích sử dụng đất các công trình năng lượng điện theo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia.
(iii) Quy hoạch đã rà soát đồng bộ các yếu tố, thông tin dữ liệu đầu vào, các ràng buộc tính toán, xem xét tính động và mở phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, kế thừa và phát triển tổng thể, tối ưu, đồng bộ, cân bằng giữa nguồn điện, phụ tải điện và lưới điện truyền tải.., do vậy đã đảm bảo được tính khách quan, chính xác và tin cậy, hợp lý của các kết quả đầu ra của mô hình tính toán, đảm bảo cung cấp đủ điện năng cho nền kinh tế với chi phí tối thiểu, góp phần đáp ứng cam kết phát thải ròng bằng “0” năm 2050 của Việt Nam. Cụ thể:
+ Điện thương phẩm: năm 2030 khoảng 500-558 tỷ kWh; định hướng năm 2050 khoảng 1238 - 1375 tỷ kWh.
+ Điện sản xuất và nhập khẩu: năm 2030 khoảng 560-624 tỷ kWh; định hướng năm 2050 khoảng 1.2360 - 1.511 tỷ kWh.
+ Công suất cực đại: năm 2030 khoảng 90-100 GW; và năm 2050 khoảng 206 - 228 GW.
+ Hệ số đàn hồi điện thương phẩm/GDP giảm mạnh từ khoảng 1,25 lần trong giai đoạn 2026 - 2030 xuống 0,33 lần trong giai đoạn 2046 - 2050.
+ Tổn thất điện năng toàn hệ thống năm 2030 khoảng 6%, năm 2050 khoảng 5%.
+ Mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện khoảng 204 - 254 triệu tấn năm 2030 và khoảng 27 - 31 triệu tấn vào năm 2050; hướng tới đạt mức phát thải đỉnh 170 triệu tấn vào năm 2030 với điều kiện nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ về tài chính, công nghệ và quản trị của các đối tác quốc tế theo JETP.
(iv) Quy hoạch đã làm rõ được các nội dung liên quan khác như định hướng liên kết lưới điện với các nước khu vực, phát triển điện nông thôn, điều độ và thông tin hệ thống điện.
(v) Quy hoạch đã nghiên cứu, đề xuất các cơ chế và 10 nhóm giải pháp thực hiện quy hoạch, tận dụng tối đa các nguồn lực và hỗ trợ quốc tế là điều kiện để thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng, tăng trưởng xanh của Việt Nam, trong đó đặc biệt quan tâm đến các giải pháp để xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.
Chi tiết toàn văn dự thảo nội dung nêu trên để xin ý kiến tham vấn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, xem tại đây.