Bill Gates có thể bị tự kỷ
Nhớ lại tuổi thơ, ông nghĩ mình may mắn vì 'sinh ra ở vạch đích'. Hỗ trợ từ cha mẹ giúp ông hòa nhập và thành danh dù mang trong mình sự khác biệt thần kinh so với xã hội.
Trong một đoạn trích từ cuốn hồi ký sắp xuất bản Source Code, Bill Gates tiết lộ những chi tiết chưa từng kể về tuổi thơ của mình. Vị tỷ phú nghĩ rằng nếu lớn lên trong thời đại ngày nay, ông có lẽ sẽ được chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ (ASD).
Trưởng thành không giống ai
Gates sinh ra và lớn lên ở Seattle, Mỹ, trong một gia đình có điều kiện. Tuy nhiên, từ nhỏ, ông đã thể hiện nhiều dấu hiệu khác biệt so với bạn bè cùng trang lứa. “Cha mẹ tôi không hiểu tại sao con trai họ lại trở nên ám ảnh với một số thứ, bỏ lỡ các tín hiệu xã hội và có thể cư xử thô lỗ, không phù hợp, làm người khác khó chịu mà không nhận ra”, ông nói.
Gates cho rằng mình có thể thuộc nhóm người “neurodivergent” (khác biệt thần kinh). Thuật ngữ chỉ người có bộ não xử lý thông tin khác biệt so với người khác vẫn chưa được biết đến rộng rãi vào thời thơ ấu của ông.
Cha mẹ của Gates, đặc biệt là mẹ ông, đã phải vật lộn để hiểu và nuôi dạy cậu con trai khác biệt của mình. Nhưng cuối cùng, họ đã tìm ra cách cân bằng giữa việc hỗ trợ và tạo áp lực để Gates phát triển.
“Thay vì để tôi thu mình, họ đẩy tôi ra thế giới: tham gia đội bóng chày, hướng đạo sinh và dự bữa tối của những gia đình khác. Họ cho tôi tiếp xúc thường xuyên với người lớn, đắm mình trong ngôn ngữ và ý tưởng của bạn bè và đồng nghiệp. Những điều đó nuôi dưỡng sự tò mò của tôi về thế giới bên ngoài trường học”, ông kể lại.
Dù có ảnh hưởng của cha mẹ, khía cạnh xã hội hay nhận thức về tác động đến mọi người xung quanh của Gates vẫn phát triển chậm. “Nhưng điều đó đã đến cùng với tuổi tác, kinh nghiệm và khi tôi có con cái, tôi trở nên tốt hơn. Tôi ước nó đến sớm hơn, dù tôi không bao giờ muốn đánh đổi bộ não mình được ban tặng”, cha đẻ Microsoft tâm sự.
Học lập trình trên những chuyến đi
Cũng trong cuốn sách Source Code, Gates dành một phần lớn để nói về những trải nghiệm tuổi thơ đã định hình con người ông. Một trong những ký ức đáng nhớ nhất của ông là những chuyến đi bộ đường dài với bạn bè.
“Chúng tôi xa cha mẹ và không có sự kiểm soát của người lớn, tự quyết định mọi thứ: đi đâu, ăn gì, ngủ khi nào và tự đánh giá những rủi ro cần chấp nhận”, Gates kể lại.
Tuy là người nhỏ nhất và yếu nhất trong nhóm, Gates vẫn thích cảm giác được thử thách bản thân và cảm nhận sự tự do. "Tôi bắt đầu cảm thấy một khao khát rõ ràng để tìm ra con đường của mình. Tôi không chắc hướng đi sẽ ra sao, nhưng tôi biết rằng nó phải thật thú vị và có ý nghĩa”, đồng sáng lập Microsoft viết.
Cũng trong thời gian đó, Gates cũng bắt đầu dành nhiều thời gian với một nhóm bạn khác tại trường Lakeside. Đây là nơi lần đầu tiên ông tiếp cận với máy tính mainframe thông qua đường dây điện thoại. Đây là một điều hiếm có vào những năm 1970. Bởi khi đó, máy tính vẫn còn là thứ xa xỉ và chỉ dành cho các chuyên gia.
Ông và các bạn dành hàng giờ viết các chương trình và thử nghiệm những gì có thể làm với cỗ máy. “Bề ngoài, đi bộ và lập trình chẳng có gì giống nhau. Nhưng cả hai đều mang lại cảm giác phiêu lưu. Giống như đi bộ, lập trình phù hợp với tôi vì nó cho phép tôi tự định nghĩa thành công của mình. Nó dường như vô hạn, không bị giới hạn bởi việc tôi chạy nhanh hay ném xa đến đâu”, Gates chia sẻ.
Theo lời vị tỷ phú, khả năng tập trung, logic và sự kiên nhẫn cần thiết để viết những chương trình dài và phức tạp đã đến với ông một cách tự nhiên. Khác với khi đi bộ, trong nhóm bạn này, ông là người dẫn đầu.
Dòng mã Bill Gates viết năm 16 tuổi là khởi đầu cho Microsoft sau này
Một trong những thử thách đầu tiên Gates tự đặt ra cho mình là viết phiên bản ngôn ngữ lập trình BASIC cho máy tính PDP-8. Chiếc máy này nặng 36 kg, giá 8.500 USD và có bộ nhớ chỉ 6 kilobyte. Con số này là rất ít so với tiêu chuẩn hiện nay. “Ngắn gọn là chìa khóa. Các chương trình phải gọn nhẹ, viết bằng càng ít mã càng tốt để không chiếm dụng bộ nhớ”, Bill Gates năm 16 tuổi nghĩ.
Thế là trong chuyến đi bộ đường dài trên dãy Olympic Mountains vào năm 1971, ông đã không ngừng hình dung cách máy tính sẽ thực hiện các lệnh mà ông viết ra.
“Tôi đã dành cả ngày để chìm đắm trong bài toán lập trình của mình. Nhịp điệu của việc bước đi giúp tôi tập trung suy nghĩ, giống như thói quen tôi thường hay lắc lư tại chỗ khi cần tập trung”, Gates kể lại.
Sau này, khi cùng Paul Allen thành lập Microsoft, Gates đã sử dụng lại những dòng mã mà ông đã viết trong chuyến đi đó. Nó đã giúp họ tạo ra một trong những ngôn ngữ lập trình đầu tiên cho máy tính cá nhân, đặt nền móng cho sự phát triển của Microsoft và cả ngành công nghiệp máy tính.
Nhìn lại thời niên thiếu, Gates thừa nhận rằng thành công của ông không chỉ đến từ tài năng mà còn nhờ vào những yếu tố may mắn. Sinh ra ở Mỹ và trong một gia đình có điều kiện, Gates có cơ hội tiếp cận với công nghệ từ rất sớm.
“Thêm vào đó là thời điểm may mắn của tôi”, ông nói. Từ khi ông còn là một đứa trẻ, ngành công nghiệp bán dẫn đã bắt đầu phát triển, cho phép tích hợp các mạch nhỏ hơn trên một con chip silicon. Khi Gates học lập trình năm 13 tuổi, máy tính đã có khả năng lưu trữ dữ liệu. Đây là một bước tiến vượt bậc so với thế hệ trước. Đến khi ông 19 tuổi, toàn bộ chức năng của một máy tính đã có thể được thu gọn trên một con chip đơn lẻ.
“Những câu chuyện thành công thường biến con người thành những nhân vật khuôn mẫu: thần đồng, kỹ sư thiên tài, nhà thiết kế nổi loạn, tỷ phú đầy mâu thuẫn. Trong trường hợp của tôi, tôi nhận ra rằng một loạt các yếu tố độc đáo. Tất cả đã định hình cả tính cách và sự nghiệp của tôi”, cha đẻ Microsoft viết.