Bảo vệ môi trường tự nhiên trước loài ngoại lai xâm lấn
Một con ốc nhỏ, một bụi cây lạ, hay một con cá cảnh... tưởng như vô hại nhưng khi trôi nổi trong tự nhiên, cũng có thể trở thành 'kẻ xâm lược sinh học' nguy hiểm. Sinh vật ngoại lai xâm hại đang từng bước bào mòn đa dạng sinh học của Việt Nam, đe dọa trực tiếp đến sinh kế và tương lai phát triển bền vững.

Người dân xã Phượng Dực (Hà Nội) vớt bèo tây. (Ảnh VŨ DUY)
Nhận diện mối nguy hại
Loài ngoại lai xâm hại (NLXH) đang nổi lên như một trong những hiểm họa môi sinh lớn nhất toàn cầu, nhưng lại là vấn đề ít được quan tâm đúng mức. Theo Báo cáo năm 2023 của Diễn đàn Chính sách-Khoa học Liên chính phủ về Đa dạng sinh học (IPBES), hơn 3.500 loài đã được ghi nhận gây hại trên thế giới, với thiệt hại kinh tế toàn cầu ước tính lên tới 420 tỷ USD mỗi năm.
Theo ông Trần Trọng Anh Tuấn, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, chỉ với gần 220 loài NLXH đã gây ra sự tuyệt chủng đối với gần 1.300 loài bản địa địa phương. Việt Nam là một trong những quốc gia có hệ sinh thái phong phú cũng phải đối mặt với sự xâm nhập của nhiều loài ngoại lai xâm hại, đặc biệt trong các hệ sinh thái nông nghiệp, rừng, đầm lầy, và các vùng nước ngọt.
Có thể kể đến, một số loài điển hình như: Ốc bươu vàng, xuất hiện từ đầu những năm 1990, chỉ sau vài năm đã lan khắp 57/61 tỉnh, tàn phá hàng trăm nghìn hec-ta lúa nước. Trong khi đó, lục bình là một loài thực vật thủy sinh có tốc độ sinh trưởng nhanh và lan rộng mạnh mẽ, gây ra hiện tượng tắc nghẽn dòng chảy, ảnh hưởng đến giao thông đường thủy, giảm chất lượng nước và sự phát triển của các loài thủy sinh khác.
Còn đối với rùa tai đỏ, vốn là loài bản địa của Bắc Mỹ, đã được nhập vào Việt Nam làm vật nuôi cảnh. Tuy nhiên, rùa tai đỏ có khả năng sinh sản nhanh và cạnh tranh với các loài rùa bản địa về thức ăn và không gian sống, làm giảm sự đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nước ngọt.
Theo ông Trần Trọng Anh Tuấn, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, chỉ với gần 220 loài NLXH đã gây ra sự tuyệt chủng đối với gần 1.300 loài bản địa địa phương. Việt Nam là một trong những quốc gia có hệ sinh thái phong phú cũng phải đối mặt với sự xâm nhập của nhiều loài ngoại lai xâm hại, đặc biệt trong các hệ sinh thái nông nghiệp, rừng, đầm lầy, và các vùng nước ngọt.
Cũng theo ông Trần Trọng Anh Tuấn, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, nguyên nhân dẫn đến sự xâm nhập và phát triển mạnh mẽ của các loài NLXH là do hoạt động buôn bán khi các loài ngoại lai thường được nhập khẩu để phục vụ cho các mục đích như nuôi trồng, cảnh quan, nghiên cứu hoặc làm vật nuôi.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng chưa có hệ thống kiểm tra và giám sát đầy đủ đối với các loài giống cây trồng và vật nuôi nhập khẩu, dẫn đến việc không nhận diện được nguy cơ gây hại của những loài này đối với hệ sinh thái địa phương. Mặc dù Việt Nam hiện đã có hành lang pháp lý với Luật Đa dạng sinh học 2008 cùng các luật liên quan đến trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và danh mục loài NLXH. Tuy nhiên, chưa có quy trình thống nhất, cụ thể, dẫn đến khó khăn trong triển khai thực tế.
Bên cạnh đó, sự phối hợp liên ngành vẫn rời rạc. Việc phân định trách nhiệm giữa trung ương và địa phương, giữa các ngành nông nghiệp, môi trường, hải quan, thương mại… còn chưa thống nhất. Trong khi đó, công tác giám sát tại chỗ, phát hiện sớm và phản ứng nhanh, những yếu tố mang tính then chốt chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
Một minh chứng cho thấy khoảng trống thực thi là tình trạng rùa tai đỏ được bày bán tại lễ hội Chùa Hương (Hà Nội) để phục vụ nhu cầu phóng sinh, bất chấp việc đây là loài bị cấm buôn bán và thả ra môi trường. Chính vì vậy, Bộ Tài nguyên và Môi trường (năm 2024) đã phải gửi công văn yêu cầu thành phố Hà Nội tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm.
Cần hành động kịp thời
Theo ông Trần Trọng Anh Tuấn, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, việc đầu tiên phải sửa đổi và thay thế Thông tư quy định về Danh mục loài NLXH, trong đó quy định rõ về điều tra, xác định, thẩm định và ban hành Danh mục loài NLXH.
Thông tư mới sẽ khắc phục được sự thiếu thống nhất trong đánh giá rủi ro và xây dựng được một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, có tính khả thi cao trong thực tiễn. Sửa đổi, cập nhật Luật Đa dạng sinh học và các luật liên quan để cụ thể hóa quy trình quản lý NLXH. Xây dựng cơ chế điều phối liên ngành, có đơn vị đầu mối thực sự quyền lực để chủ trì kiểm soát sinh vật ngoại lai.
Không chỉ dừng ở thể chế, theo ông Lê Đức Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội cần xây dựng hệ thống phát hiện sớm, phản ứng nhanh. Thiết lập mạng lưới cảnh báo NLXH từ cấp xã lên Trung ương. Tích hợp công nghệ AI, viễn thám vào giám sát, giúp tự động phát hiện các loài NLXH trên vùng rộng lớn.
Bên cạnh đó, lồng ghép ngân sách sự nghiệp môi trường, nông nghiệp và KH&CN vào các hoạt động kiểm soát NLXH, khuyến khích hợp tác công tư, đặc biệt trong sản xuất vật tư sinh học, phục hồi hệ sinh thái, kêu gọi sự tài trợ quốc tế cho các vùng trọng điểm bị xâm lấn như Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, các vườn quốc gia.
Bên cạnh đó, hiện tại, Việt Nam mới chỉ ban hành Danh mục 19 loài NLXH tại Thông tư 35/2018/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường trước đây. Tuy nhiên, việc đánh giá nguy cơ, cập nhật danh mục và phân loại các loài chưa được thực hiện theo chuẩn quốc tế.
Cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát chặt chẽ đối với việc nhập khẩu các loài sinh vật, đặc biệt là các loài có nguy cơ xâm hại.
Theo Tiến sĩ Bùi Đắc Thuyết, Trường đại học Tài nguyên và môi trường cho rằng, cần áp dụng các mô hình đánh giá nguy cơ đã được quốc tế công nhận như EICAT (Phân loại tác động môi trường của loài ngoại lai), SEICAT (Phân loại tác động kinh tế xã hội), Weed Risk Assessment (Đánh giá nguy cơ cỏ dại), PRA (Phân tích rủi ro dịch hại) và các bộ công cụ đánh giá tính xâm lấn.
Ngoài ra, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát chặt chẽ đối với việc nhập khẩu các loài sinh vật, đặc biệt là các loài có nguy cơ xâm hại. Khi triển khai phát triển các dự án cần phải thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với sự xâm nhập của loài NLXH, đặc biệt đối với các hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, và nuôi trồng thủy sản. Tuyên truyền và nâng cao nhận thức cộng đồng về mối nguy hiểm của loài NLXH và khuyến khích các hành động bảo vệ thiên nhiên. Thực tiễn cho thấy, nếu có chiến lược đúng, hành động sớm và phương pháp phù hợp, loài xâm hại hoàn toàn có thể bị kiểm soát…