Bảo tồn và phát huy chữ viết, tiếng nói của đồng bào dân tộc thiểu số (Bài 1): Nối dòng chữ, giữ tiếng nói núi rừng

Giữa nhịp sống hiện đại, khi tiếng nói của nhiều dân tộc thiểu số đang dần bị lãng quên, vẫn có những con người lặng lẽ âm thầm gìn giữ tiếng mẹ đẻ của mình bằng tình yêu và lòng tự hào sâu sắc. Họ là những nghệ nhân, thầy giáo, nhà nghiên cứu... đã và đang miệt mài mở lớp dạy chữ, dạy tiếng, với mong muốn tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình không bị mai một trong dòng chảy hội nhập.

Nghệ nhân Ưu tú Phùng Quang Du đang hướng dẫn dạy chữ Nôm Dao cho học trò.

Nghệ nhân Ưu tú Phùng Quang Du đang hướng dẫn dạy chữ Nôm Dao cho học trò.

Ở khu phố Hạ Sơn, xã Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, Nghệ nhân Ưu tú Phùng Quang Du dù ở tuổi 75 vẫn ngày ngày soạn giáo án, miệt mài với sự nghiệp “trồng người”. Ông đã dạy và truyền dạy chữ Nôm Dao, ngôn ngữ cổ đã gắn bó với dân tộc Dao suốt hàng trăm năm qua cho rất nhiều người.

Ông Du là người có uy tín trong cộng đồng người Dao ở Hạ Sơn. Với vốn hiểu biết sâu rộng, ông được xem là “kho tư liệu sống” về văn hóa dân tộc Dao. Ông đã dành hàng chục năm trong cuộc đời để tìm hiểu, nghiên cứu chữ Nôm Dao. Ông kể: “Năm lên 8 tuổi, tôi được ông nội và cha là những người hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân tộc Dao, dạy viết chữ, truyền lại cách đọc và ý nghĩa của từng con chữ. Càng học, tôi càng thấy trong mỗi nét chữ là tiếng nói, là hồn cốt của dân tộc mình, nên cố gắng học và tìm hiểu thật nhiều”.

Trải qua bao năm tháng, tình yêu với chữ Nôm Dao trong ông ngày càng sâu đậm. Đến nay, ông có trong tay hàng trăm tư liệu, sách cổ quý bằng chữ Nôm Dao, có cuốn đã hơn trăm năm tuổi, như “Hiền văn”, “Nghìn tự văn”, “Đại sư ca”, “Lục hạt”... Với ông, đó không chỉ là những văn bản cổ, mà là di sản tinh thần, “kho báu” của tổ tiên được gìn giữ cho đời sau. Và không muốn chữ viết cổ chỉ nằm yên trong sách, nhiều năm nay, ông mở các lớp dạy chữ Nôm Dao miễn phí trong cộng đồng. Học trò của ông đủ mọi lứa tuổi, từ các cụ cao niên đến những em nhỏ trong bản, những ai muốn đọc, viết chữ Nôm Dao thì ông đều sẵn lòng. “Tôi chỉ mong ngày càng có nhiều người biết đọc, biết viết chữ Nôm Dao để tiếng nói của dân tộc mình ngày càng phổ biến trong cuộc sống”, ông Du tâm sự. Tuổi này, đáng lẽ được “vui thú điền viên” nhưng ông vẫn đều đặn mở các lớp học miễn phí, miệt mài truyền dạy chữ Nôm Dao cho thế hệ trẻ hôm nay.

Không chỉ truyền dạy, ông Du còn là một trong những tác giả tham gia biên soạn bộ sách chữ Nôm Dao Thanh Hóa gồm 9 tập. Đây là thành quả của nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm và chuẩn hóa chữ viết, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc bảo tồn ngôn ngữ Nôm Dao. Bên cạnh đó, ông còn quan tâm gìn giữ phong tục, dân ca, dân vũ và các lễ nghi truyền thống. Với ông, bảo tồn ngôn ngữ là bảo vệ linh hồn văn hóa dân tộc. “Chữ viết, tiếng nói còn thì dân tộc còn. Còn tiếng Nôm Dao là còn cội nguồn, còn niềm tự hào của con cháu chúng tôi”, ông nói, giọng chậm rãi mà dứt khoát.

Cô giáo Hà Thị Khuyên trong một buổi thuyết trình về sự cần thiết dạy chữ dân tộc trong trường học.

Cô giáo Hà Thị Khuyên trong một buổi thuyết trình về sự cần thiết dạy chữ dân tộc trong trường học.

Ở ông Phùng Quang Du, người ta thấy được sức sống của một tấm lòng son với tiếng nói quê hương. Từ những con chữ ông gìn giữ, những lớp học ông mở ra nơi bản làng, mạch nguồn văn hóa dân tộc được tiếp nối qua từng thế hệ. Và rồi, ngọn lửa ấy không chỉ dừng lại ở lớp người đi trước, mà đang được những người trẻ tiếp nhận, nuôi dưỡng và lan tỏa.

Một trong những người tiếp bước trong hành trình giữ gìn tiếng nói quê hương là cô giáo Hà Thị Khuyên, người con gái dân tộc Thái, xã Quan Sơn. Tốt nghiệp chuyên ngành Ngữ văn, Trường Đại học Tây Bắc, cô lựa chọn trở về quê hương, gắn bó và giảng dạy tại Trường THPT Quan Sơn, nơi từng nuôi dưỡng những ước mơ đầu đời của mình. Những năm học xa nhà đã cho cô cơ hội mở mang tri thức, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, để rồi càng thấm thía hơn giá trị của tiếng nói, chữ viết dân tộc. Với cô, bảo tồn ngôn ngữ dân tộc không chỉ là gìn giữ một phương tiện giao tiếp, mà là lưu giữ ký ức, tâm hồn và bản sắc của cả một cộng đồng.

Năm 2010, khi Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa mở lớp bồi dưỡng tiếng nói, chữ viết dân tộc Thái cho cán bộ, giáo viên miền núi, cô Khuyên là một trong những người đầu tiên đăng ký tham gia. Sau khóa học, cô chủ động tìm đến các nghệ nhân để học hỏi thêm, rồi tự biên soạn giáo án, điều chỉnh nội dung sao cho phù hợp với học sinh trung học. Hai năm sau, lớp học tiếng Thái đầu tiên tại Trường THPT Quan Sơn ra đời. Dù ban đầu gặp nhiều khó khăn vì học ngoài giờ, học sinh ở xa, đường sá đi lại vất vả, nhưng bằng niềm say mê và lòng kiên định, cô đã truyền và duy trì “ngọn lửa” là tình yêu văn hóa dân tộc đến với hàng trăm học sinh trong suốt những năm qua.

Theo cô Khuyên, ngôn ngữ là điều kiện đầu tiên để hiểu về văn hóa, từ những câu tục ngữ, điệu dân ca cho đến truyện thơ, phong tục tập quán... mỗi trang chữ là một câu chuyện về cội nguồn, về cách sống, cách ứng xử của mỗi dân tộc. Cô khuyến khích học sinh mặc trang phục dân tộc khi đến lớp, để việc học không chỉ là tiếp nhận tri thức, mà còn là hành trình tự hào về chính bản thân và dân tộc mình. Bởi với cô, việc dạy tiếng Thái là một hành trình gieo mầm. Cô không chỉ dạy chữ, dạy tiếng, mà còn truyền đi niềm tin rằng mỗi ngôn ngữ đều mang trong mình một thế giới văn hóa đáng trân trọng. Như lời cô tâm sự: “Tiếng nói, chữ viết của dân tộc Thái đang dần bị mai một, nên tôi mong việc dạy và học chữ Thái được nhân rộng hơn, để thế hệ trẻ không quên tiếng nói của ông cha mình”.

Ngôn ngữ là linh hồn của mỗi dân tộc, là nơi gửi gắm ký ức, tri thức và bản sắc văn hóa qua bao thế hệ. Với đồng bào dân tộc thiểu số, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp, mà còn để kể lại những câu chuyện của tổ tiên, để nhắc nhớ về nguồn cội và khẳng định bản sắc riêng giữa muôn sắc màu văn hóa.

Bài và ảnh Phan Vân

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/bao-ton-va-phat-huy-chu-viet-tieng-noi-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so-bai-1-nbsp-noi-dong-chu-giu-tieng-noi-nui-rung-39852.htm